Lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài vân du khắp xứ Ấn Độ, thuyết pháp cho đủ hạng
người, đối tượng, giáo pháp của Ngài vì vậy rất đa dạng, hình thức bất định; tuy
vậy, cho đến khi nhập diệt, do yếu tố khách quan, những ngôn giáo của Ngài vẫn
không được ghi chép thành văn bản. Và do vì sau khi đức Phật nhập diệt, trong Tăng
chúng lại phát sinh một số vấn đề, cho nên các đại đệ tử của Đức Phật đã tổ chức
tiến hành kết tập những ngôn giáo ấy, lấy đó làm y chỉ cho việc tu hành sau
này.
Nhân duyên kết tập kinh điển
Thiết nghĩ, trước khi đi vào nội dung chính, cũng cần tìm hiểu sơ qua hai
từ kết tập (結集) và kinh
điển (經典). Vậy kết tập là gì? Có thể hiểu một cách nôm
na như thế này, trong đại hội, sau khi trong chúng cử ra những cao Tăng có trí
nhớ tốt, am tường, thông thạo, mang tính đại diện cho các mảng kinh, luật đọc
lên, được đại chúng đồng ý, thông qua; tiếp đó, biên tập thành kinh sách có hệ
thống, thì gọi đó là kết tập. Còn kinh
điển thì là được ghi lại những điển tịch do Đức Phật thuyết giáo, thì gọi
là kinh điển. Chỉ có cách tổ chức kết
tập kinh điển, chánh Pháp mới có thể gìn giữ và lưu truyền mãi mãi.
Về nguồn gốc kinh điển, căn cứ vào kinh Du hành trong bộ kinh Trường
A hàm ghi chép, Đức Phật sau khi nhập
diệt, đa số các đệ tử đều nương theo những lời giáo huấn của Ngài mà tu tập;
tuy nhiên, trong chúng có một vị Tỳ-kheo ngu si, vô trí tên là Bạt-nan-đà
(Upananda) thì lại tỏ ra phấn khởi, vui vẻ khi biết Đức Phật đã nhập diệt; kể từ
đó, vị này sống buông lơi, phóng dật, không tuân theo giới luật của Đức Phật.
Sau khi Ngài Đại ca-diếp (Mahakassapa) nghe được thông tin này thì trong lòng
vô cùng xót xa; để đề phòng những sự cố, tai họa có thể xảy ra sau này, Ngài Mahakassapa
đã khởi xướng việc tố chức kết tập lại tất cả ngôn giáo của Đức Phật.
Ngài Mahakassapa trước tiên mời vua A-xà-thế (Ajatashatru) nước Ma-kiệt-đà
(Magadha), một tín đồ thuần thành đứng ra gìn giữ và bảo vệ Phật pháp, cung cấp
tất cả y thực ngọa cụ, và chọn ra 500 vị Tỳ-kheo, Thượng tọa có đức có học, đi
về hướng thạch hang thất diệp (Sapta-parn!a-guha^) ở núi Tỳ-bà-la (Vebha^ra) gần
cận thành Vương-xá (Rajagrha) để bắt tay vào công việc kết tập kinh điển. Đại hội
kết tập do Ngài Mahakassapa làm chủ trì hội nghị, Ngài Ưu-bà-ly (Upāli) trì luật
đệ nhất đọc tụng luật. Nội trong ba tháng, hàng ngày Ngài Upāli đều thăng tọa đọc
tụng giới điều (những điều cấm kỵ), cộng cả thảy 80 lần đọc tụng mới hoàn
thành, sau đó soạn thành bộ Bát thập tụng
luật, đây là tất cả căn bản của giới luật Phật giáo. Bát thập tụng luật là được cấu thành từ tám bộ phận lớn, nhập chung
lại gọi là “ngũ thiên”. Những giới điều này là do Đức Phật căn cứ vào các trường
hợp phạm tội cụ thể phát sinh từ Tăng đoàn lúc bấy giờ mà chế định. Các học giả
đời sau nương vào luật căn bản này, tiếp tục suy diễn phát triển ra Tứ phần luật, Ngũ phần luật. Hiện nay Bát
thập tụng luật đã bị thất lạc, không tìm thấy.
Trong đại hội, A-nan-đà (Ānanda) - đa văn đệ nhất được
đại chúng cử tụng đọc kinh (pháp) tạng. Nhiệm vụ của Ngài Ānanda là đem tất cả những
lời giáo huấn với các địa điểm, thời gian…khác nhau lúc Đức Phật còn tại thế thuật
lại, đồng thời khẳng định nói: “Tôi quả
thực là nghe Đức Phật thuyết như vậy.” Đấy chính là lý do tại sao mở đầu tất
cả kinh điển đều có câu: “Như thị ngã
văn” (Tôi nghe như vầy). Các Tỳ-kheo, Thượng Tọa trong đại hội lắng nghe
các nội dung Ānanda thuật lại, hễ cho rằng nội dung ấy phù hợp với ngôn giáo của
Đức Phật, thì biểu thị đồng ý; còn nếu cho rằng có chỗ còn sai sót, thì nêu ra
để sửa chữa, bổ sung. Như thế, cho thấy việc biên tập thành kinh sách nhất thiết
phải thông qua sự thẩm định và tán thành của đại chúng, và đó chính là kinh A-hàm
(Āgama/阿含) mà đến nay vẫn còn được lưu
truyền.
Nội dung bốn bộ kinh A-hàm
Bốn bộ A hàm được thành lập
theo thứ tự, đó là kinh Tạp A-hàm (Samyuktagama/雜阿含), kinh Trung
A-hàm (Madh yamagama/中阿含), kinh Trường A-hàm (Dirghagama/長阿含), và kinh Tăng nhất A-hàm (Ekottaragama/增一阿含).
Kinh Tạp A-hàm được thành lập sớm nhất trong bốn bộ A-hàm, trên cơ bản là thể
tài ghi chép lời nói và việc làm, ghi lại việc tu hành và các hoạt động hoằng
pháp của Đức Phật và các đệ tử của Ngài. Trong kinh trình bày các giáo nghĩa
căn bản của Phật giáo như Duyên khởi, Thập nhị nhân duyên, Tam pháp ấn, Tứ thánh
đế, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo v.v…. Nội dung cốt lõi của nó là thuyết minh nỗi
khổ đau của nhân sinh trong thế giới hiện thực cũng như phương pháp loại trừ khổ
đau ấy, nhìn chung đều là nguồn gốc tư tưởng của Phật giáo nhân gian. Kinh này
không đặt nặng ở huyền lý (đạo lý huyền diệu) hay nghĩa giải (giải thích nghĩa
lý), mà đặt nặng ở thực tiễn tu hành; vì vậy, đọc tụng kinh này, sẽ có ích cho
người hiện đại trong việc tu hành, sống đời sống hạnh phúc, an vui.
Kinh Trung A-hàm chủ yếu luận thuật về giáo nghĩa cơ
bản như Tứ thánh đế, Duyên khởi; trình bày về chân lý vũ trụ, vạn vật như vô
thường, vô ngã; bên cạnh đó nói rõ các phương pháp tu trì, cho đến mối quan hệ
với con đường giải thoát Niết-bàn (Nibbāna). Kinh này trình bày khá rõ ràng về
giáo nghĩa căn bản của Phật giáo Tiểu thừa.
Kinh Trường A-hàm giống với ba bộ A-hàm khác, ngoài việc
ghi chép giáo nghĩa cơ bản Phật giáo thời kỳ đầu ra; điểm độc đáo của nó ở chỗ chủ
trương phá đổ các thuyết khác của ngoại đạo. Như các kinh Tệ-túc còn gọi là Tì-tứ
(Pāyāsi), kinh A-ma-trú (Ambattha), kinh Khỏa hình
phạm chí, đều ghi chép tỉ mỉ nội dung chủ yếu Phật giáo thời kỳ đầu bài
xích các dị thuyết ngoại đạo.
Kinh Tăng nhất A-hàm được
biên soạn sau cùng trong bốn bộ kinh A-hàm, nội dung chủ yếu bao gồm giáo nghĩa
cơ bản của Phật giáo thời kỳ đầu, cuộc đời Đức Phật, các việc của chúng đệ tử,
nhân duyên chế luật và giáo nghĩa giới kinh. Ngoài ra, còn xuất hiện rải rác tư
tưởng Phật giáo Đại thừa, như sự biến hóa của Bồ-tát (Bodhisattva), đề cao
nghĩa không, cũng như sự xuất hiện của tha phương Phật thổ.
Bốn bộ kinh A hàm mặc dù là giáo điển Tiểu thừa của Phật giáo nguyên thủy,
nhưng lại là y cứ quan trọng sinh khởi tư tưởng Đại thừa. Không nghĩa, Duyên khởi,
Trung đạo, cho đến Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tam học giới định tuệ, Tứ nhiếp
pháp… của Đại thừa giáo, đều có thể tìm thấy trong kinh A-hàm. Khái niệm “không” (空) của Long Thọ,
hay như khái niệm “có” (有) của Vô Trước, rõ ràng đều chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của kinh A-hàm.
Tóm lại, qua những trình bày tổng hợp trên, cho chúng ta thấy rằng, Bát thập tụng luật và bốn bộ kinh A-hàm là
những kinh điển được thành lập sớm nhất. Chính nhờ vào việc kết tập kinh điển
nguyên thủy này, mới có thể làm cho nguồn mạch chánh Pháp tiếp tục được lưu
truyền và phổ biến rộng rãi khắp năm châu bốn bể; nó cũng là cứ liệu làm thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo Đại thừa.
Nguyễn Phước Tâm
Nguyệt san Giác Ngộ, số 208/ra ngày 15/7/2013
Đăng nhận xét