Văn tự là công cụ ghi chép ngôn ngữ. Bản chất của văn tự là hệ thống ký
hiệu viết dùng để ghi chép ngôn ngữ nói. Văn tự được hình thành và phát triển
nhằm khắc phục khuyết điểm không thể truyền xa, truyền lâu dài của ngôn ngữ
nói.
Chữ Hán là công cụ ghi chép tiếng Hán, là loại văn tự mang tính biểu ý.
II. Cấu tạo và hình thể từ (đơn âm)/tự/chữ Hán
1.
Cấu tạo của chữ Hán
Cấu tạo của chữ Hán là phương
thức tạo chữ Hán. Về tự/chữ/hay từ đơn âm, có sáu phương thức cấu tạo mà người
ta gọi là Lục thư: Tượng hình, chỉ sự,
hội ý, hình thanh, chuyển chú, và giả tá.
1.1 Chữ tượng hình
Tạo ra chữ bằng cách vẽ nên các vật căn cứ theo hình vẽ của nó, như chữ日rì-nhật=mặt
trời/ngày,月yuè-nguyệt=mặt trăng/tháng, 水shuǐ-thủy=nước,…
1.2 Chữ chỉ sự
Hứa Thận, tác giả sách Thuyết văn
giải tự, giải: “Thấy mà nhận biết, xét mà rõ ý, như chữ 上shàng-thượng=trên,
chữ 下xià-hạ=dưới” (Chỉ sự giả, thị nhi khả thức, sát nhi kiến ý, thượng hạ thị
giả)
1.3 Chữ hội ý
Chữ hội ý là
loại chữ dùng hai hoặc trên hai chữ có ý nghĩa liên quan kết hợp với
nhau tạo
thành.
Ví dụ: 好, 明,林 ,众。。。
1.4 Chữ hình thanh
Theo phương
thức này, người ta dùng một dấu hiệu để chỉ thanh (âm đọc). Phần chỉ ý đại khái
nêu lên sự quan hệ giữa chữ đó với một vật nào mà nó muốn hiểu thị; phần còn lại
chỉ thanh để cho biết âm đọc giống hoặc gần giống của chữ. Ví dụ:
Chữ 莱lái-lai=một
loại cỏ do bộ 艹cǎo-thảo=cỏ và 来lái-lai=đên tạo thành. “Thảo”, dùng chỉ ý, cho biết
“lai” thuộc một loại cỏ, còn “lai” chỉ âm đọc tên của loại cỏ đó.
1.5 Chữ chuyển chú
Theo Hứa Thận,
chuyển chú là “lập nên một đầu bộ, cùng một ý nhận nhau, như chữ
考khảo, chữ老 lão” (Chuyển
chú giả, kiến loại nhất thủ, đồng ý tương thụ, khảo, lão thị dã). Có thuyết cho
chuyển chú không phải là phép tạo tự, mà chỉ là phép dùng một chữ này để chú
thích cho một chữ kia, hai chữ đó vốn có cùng một nghĩa, như dùng chữ 刑xíng-hình,
chú thích cho chữ 刭jīng-kinh, chữ 颠diàn-điên chú thích cho chữ 顶dǐng-đính,…
1.6 Chữ giả tá
Là loại chữ
mượn một chữ đã có sẵn rồi đem dùng với nghĩa mới, gọi là phương thức giả tá.
Vid dụ: chữ 深shēn-thâm, chỉ độ sâu của nước biển/sông, như 河水深hé shuǐ shēn-hà thủy thâm= nước sông sâu, sau đó người ta mượn
nó chỉ sự sâu sắc của trí tuệ, như nói 深思shēn si-thâm tư= suy nghĩ kỹ,…
2. Hình thể
của chữ Hán
2.1 Hình thể của chữ Hán là chỉ hình thái bên ngoài của chữ Hán, nó
vừa chỉ các thể chữ trong lịch sử chữ Hán như: Giáp cốt, Kim văn, Đại triện, Tiểu
triện, Lệ, Thảo, Khải, Hành (Bát thể), vừa chỉ các thể chữ Hán hiện đại, như thế
chữ viết tay, thể chữ in v…v…
Diễn biến của hình thể chữ Hán có 3 giai đoạn lớn theo xu thế thoát ly
hình vẽ để ký hiệu hoá, từ phức tạp đến đơn giản, từ không chỉnh tề đến chỉnh tề
vuông vắn.
-
Từ chữ Giáp cốt, Kim văn phát triển thành chữ Triện
(Đại triện đến Tiểu triện).
-
Từ chữ Triện phát triển thành chữ Lệ.
- Từ chữ Lệ phát triển thêm một bước thành chữ Thảo,
chữ Khải, chữ Hành. Hiện nay chữ Khải được sử dụng hết sức sâu rộng.
2.2 Chữ phồn thể và chữ giản thể
Để đơn giản
hoá, người ta đã giảm bớt số nét, dùng chữ ít nét thay cho chữ đồng âm, đồng
nghĩa nhiều nét hơn. Loại chữ được giảm bớt nét được gọi là chữ giản thể, loại chữ đồng âm, đồng
nghĩa nhiều nét hơn gọi là chữ phồn thể.
Vd: 学习à 學習,师父à師父,始终à 始終
2.3 Bộ thủ (tham khảo SGK 301, phần phụ lục)
Chữ Hán phần
lớn là chữ hình thanh, loại chữ này là loại chữ hợp thể do hai, hoặc trên hai
chữ đơn thể tạo thành. Chữ đơn thể cấu tạo thành chữ hợp thể được gọi là thiên
bàng. Thiên bàng biểu thị ý nghĩa gọi là hình bàng.
Ví dụ: trong
các chữ 材-cái, 草-cǎo, 讲-jiǎng, 河-hé, thì木-mù,艹-cǎo,讠-yán,氵-san là hình bàng.
Theo truyền thống,
các loại tự điển quy các
chữ có chung hình bàng vào một bộ, lấy hình bàng này làm chữ đầu (thủ tự)
của bộ đó, do vậy hình bàng còn gọi là Bộ thủ.
2.4 Nét chữ
Hình thể của một chữ Hán là do một số chấm, đường vạch khác nhau tạo
thành, những chấm và đường vạch khác nhau đó được gọi là Nét chữ.
Khi viết, một lần nhấc bút được kể
là một đơn vị nét. Xác định một chữ có bao nhiêu nét là rất quan trọng vì nhờ
nó, ta mới có thể viết đúng, viết đẹp và nhất là mới có thể tra tự điển được.
Có 7 nét cơ bản (từ 7 nét cơ bản này biến thể thêm 15 nét
khác, tham khảo Giáo Trình Tân Hán Ngữ):
-
Nét chấm 丶 住 zhù
-
Nét ngang 一 十 shí
-
Nét sổ 丨 中 zhōng
-
Nét phẩy 丿 人 rén
-
Nét mác 乀 八 bā
-
Nét hất √ 地 dì
-
Nét móc 亅 小 xiǎo
2.5 Quy tắc bút thuận (Thứ tự viết các nét)
Chữ Hán tuyệt đại bộ phận có từ hai
nét trở lên. Cũng như bất kỳ ngôn ngữ nào, khi viết, cần tuân theo một trật tự
nhất định, như nét chữ nào viết trước, nét chữ nào viết sau. Trật tự này, qua
khảo sát của các nhà Hán học quy thành 8 nét cơ bản sau đây:
-
Ngang trước sổ sau 十 à 一 十
-
Phẩy trước mác sau 八 à 丿 八
-
Trên trước dưới sau 二 à 一 二
-
Trái trước phải sau 你 à 亻 你
-
Ngoài trước trong sau 月 à 月
-
Vào trước đóng sau 国 à 冂 国
-
Giữa trước hai bên sau 小 à 亅 小
-
Và đặc biệt trong bất kỳ chữ nào có bộ xước cấu
thành đều viết bộ xước sau cùng 过 à 寸 过
.......................................................................
Trương Văn Giới, Lê Khắc Kiều Lục biên dịch (2004), Giáo trình 301 câu đàm thoại tiếng Hoa. NXB. Khoa học Xã hội.
Trần Văn Chánh (1997), Sơ lược ngữ pháp Hán văn. NXB. Đà Nẵng.
.......................................................................
Trương Văn Giới, Lê Khắc Kiều Lục biên dịch (2004), Giáo trình 301 câu đàm thoại tiếng Hoa. NXB. Khoa học Xã hội.
Trần Văn Chánh (1997), Sơ lược ngữ pháp Hán văn. NXB. Đà Nẵng.
Đăng nhận xét