Một điều đáng mừng là thời gian gần đây có vẻ xã hội đã chấp nhận
rằng ngành giáo dục của chúng ta bệnh đã quá nặng cần mang ra cho mọi
người bàn bạc góp ý kiến, và nếu có ai hiến kế để chữa chạy thì càng
tốt. Trước khi bốc thuốc, điều cần thiết đầu tiên vẫn là thấy rõ căn
bệnh. Trong cuộc hội chẩn này, có thể nêu một số giả thiết để làm việc –
dưới đây tôi xin phép được nêu giả thiết của tôi.
1/ Cũng như nhiều ngành khác, ngành giáo dục của ta được xây dựng
ngoài những chuẩn mực chặt chẽ mà đáng lẽ phải được tôn trọng. Ta hay có
lối chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần vẫn cứ làm. Ví dụ một trường đại
học chỉ được thành lập khi có đủ cơ sở vật chất, cả cán bộ giảng dạy lẫn
cán bộ quản lý. Những yêu cầu này ở nước nào người ta cũng tuân theo,
chỉ có riêng ta thì không. Trên danh nghĩa cũng có những người gọi là
giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ
thực tế chắc chắn là thấp hơn chuẩn mực rất nhiều, bởi vậy có mấy người
được nước ngoài công nhận (không phải là họ làm cao hoặc cốt gây khó
khăn cho ta, mà thực tế không chấp nhận nổi).
Cố nhiên cái sự chưa đạt chuẩn mực này không chỉ đặc trưng cho cách
tồn tại, cách vận hành riêng của các trường đại học mà là chung của các
cấp học, và nó bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo
khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử, cho tới chất lượng dạy và học.
Luôn luôn xảy ra tình trạng không đáp ứng đúng chuẩn mực cũng cố mà
làm, giáo viên chưa đủ trình độ cũng cho dạy, học sinh không đủ trình độ
cũng cho lên lớp, sinh viên ra trường không ai nhận cũng cứ xin thêm
chỉ tiêu đào tạo. Trước mắt chúng ta là một cơ thể tiên thiên bất túc,
lúc nào cũng ốm yếu quặt quẹo.
2/ Tên bệnh đã vậy, thế còn mức độ thì sao? Chứng minh ra thì hơi dài
dòng, song có thể tin là những thiếu sót mà gần đây, nhiều người đã nêu
khi nói về giáo dục ở ta ( từ giảng dạy xa rời thực tế, tới học sinh hư
hỏng, quay cóp lu bù, rồi nạn thày giáo lao vào kiếm sống, dạy thêm học
thêm tràn lan, mua bán văn bằng trắng trợn…) tất cả đều có liên hệ tới
bệnh thiếu chuẩn mực, do đó có thể nói bệnh gốc đã ăn vào lục phủ ngũ
tạng và rất khó chữa. Để cùng xác định mức độ nghiêm trọng, xin có một
chút liên hệ: đọc báo gần đây, thấy các cơ quan quản lý giao thông đề
nghị mọi người hiến kế để có cách làm sao tai nạn giao thông có thể mỗi
ngày mỗi giảm. Nhưng vấn đề là ở chỗ người ta phải dự tính điều này từ
khoảng mười lăm hai mươi năm trước, khi số lượng các phương tiện còn tạm
chấp nhận được. Chứ với mức độ xe máy như hiện nay, thì có tài thánh
cũng không hạn chế nổi tai nạn. Bệnh nào cũng có cái ngưỡng của nó, quá
ngưỡng thì chịu. Đối với giáo dục cũng vậy. Thêm một ví dụ nhỏ, chứng tỏ
mọi sự chữa vặt là vô nghĩa: Dăm bảy năm nay, nhận thấy các trường công
lập bị bao ràng buộc, nhiều người đã tính bàn nhau mở thêm các trường
dân lập. Gia đình tôi cũng thử xem sao, cho con đi học dân lập, sau mới
ngớ ra, nếp làm giáo dục ở ta mấy chục năm nay nó đã thế rồi, thì lúc ra
tồn tại với danh nghĩa khác, người ta cũng cứ đường cũ mà đi. Các
trường dân lập cũng có đủ bệnh như trường công lập nói chung. Thế thì
còn có cách nào mà cựa bây giờ?
3/ Khi không có những điều kiện cần và đủ mà bắt buộc phải tồn tại,
tự bản thân cơ chế giáo dục phải có cách thích ứng, lâu dần nó tự ổn
định trong tình trạng hiện thời và tự nhiên là trở nên trơ lì, không thể
phấn đấu thành cái đáng ra nó phải thế, cũng tức là không thể trở lại
chính mình nữa. Quán tính tự bảo vệ không cho phép người trong ngành
thấy hết bệnh tật đang có trong cái môi trường người ta tồn tại. Thật
vậy, một điều không ai nói ra nhưng ai cũng biết, lâu nay giáo dục đã là
nơi sinh sống làm ăn của bao nhiêu con người. Nay giả thử có sự thay
đổi thì những người đó đi đâu làm gì bây giờ?! Không ai tự chặt chân
mình, tự làm phiền mình trong công việc cả. Thành thử cứ với nhận thức
như hiện nay, thì dù nhiệt tình đến đâu cũng chỉ có thể có những cải
cách hời hợt chứ không thể có những thay đổi cơ bản.
4/ Mặt khác, không chỉ là bệnh riêng của ngành giáo dục, mà tình
trạng bê bết khó khăn còn đang ngự trị trong nhiều lĩnh vực khác, bởi
vậy những tác động từ bên ngoài tới giáo dục cũng là rất hạn chế. Ở
nhiều cơ quan hiện có tình trạng ông thủ trưởng này làm ăn kém điều đi,
đưa ông khác về, lại còn không bằng ông cũ. Thật khó kiếm người biết làm
giáo dục, như đang không có người biết làm kinh tế, người biết làm du
lịch, người biết bảo quản các di sản do ông cha để lại…
5/ Nói vậy có phải là quá bi quan không? Tôi cũng đủ lương tri để sau
khi nảy ra những ý nghĩ như trên, loay hoay tìm cách tự bác bỏ, mà chưa
bác bỏ nổi, vậy xin cứ ghi ra đây. Dẫu sao tôi vẫn tin ngoài con đường
trở lại với chuẩn mực, thì không có cách gì để cứu vãn nền giáo dục hiện
thời cả.
Cũng phải nói thêm sở dĩ chúng ta biết không đạt chuẩn mực vẫn cứ làm, lý do là vì muốn ai cũng được hưởng phúc lợi giáo dục, ngay trong hoàn cảnh xã hội chưa trưởng thành về kinh tế cũng cố phổ cập rộng rãi để lấy tiếng và để mọi người ai cũng có thể vừa lòng. Nay có lẽ đã đến lúc chúng ta phải lựa chọn: hoặc chất lượng giáo dục hoặc số lượng. Tức một việc đau xót có thể xảy ra, là phải tạm thời từ bỏ nguyên tắc phổ cập đó, lùi một bước tiến ba bước, có nguồn nhân lực tốt để đóng góp cho xã hội rồi sẽ phổ cập sau. Giống như trong kiếm sống, phải có người giàu trước người giàu sau, thời gian trước mắt, trong giáo dục chúng ta chỉ có thể bảo đảm cho một số nhỏ thanh thiếu niên được học hành cẩn thận, còn đa số sẽ chỉ được trang bị một ít kiến thức cơ bản rồi lo học nghề, để ra làm thợ…, có lẽ như thế sẽ hợp lý hơn chăng? Còn trong tình trạng hiện thời, cố để mà phổ cập giáo dục là một việc quá sức, và thực tế là sẽ không thể có giáo dục với nghĩa đúng đắn của nó.
Cũng phải nói thêm sở dĩ chúng ta biết không đạt chuẩn mực vẫn cứ làm, lý do là vì muốn ai cũng được hưởng phúc lợi giáo dục, ngay trong hoàn cảnh xã hội chưa trưởng thành về kinh tế cũng cố phổ cập rộng rãi để lấy tiếng và để mọi người ai cũng có thể vừa lòng. Nay có lẽ đã đến lúc chúng ta phải lựa chọn: hoặc chất lượng giáo dục hoặc số lượng. Tức một việc đau xót có thể xảy ra, là phải tạm thời từ bỏ nguyên tắc phổ cập đó, lùi một bước tiến ba bước, có nguồn nhân lực tốt để đóng góp cho xã hội rồi sẽ phổ cập sau. Giống như trong kiếm sống, phải có người giàu trước người giàu sau, thời gian trước mắt, trong giáo dục chúng ta chỉ có thể bảo đảm cho một số nhỏ thanh thiếu niên được học hành cẩn thận, còn đa số sẽ chỉ được trang bị một ít kiến thức cơ bản rồi lo học nghề, để ra làm thợ…, có lẽ như thế sẽ hợp lý hơn chăng? Còn trong tình trạng hiện thời, cố để mà phổ cập giáo dục là một việc quá sức, và thực tế là sẽ không thể có giáo dục với nghĩa đúng đắn của nó.
Trang Web Học thế nào http://hocthenao.vn/2013/06/22/tai-sao-gan-nhu-la-vo-phuong-cuu-chua-vuong-tri-nhan/ đăng lại.
Đăng nhận xét