Phân đoạn 1: Nền giáo dục đối phó
Tôi là một học sinh lớp 12. Ở Việt Nam thì đây là giai đoạn khắc nghiệt nhất trong đời mỗi học sinh. Và chính sự khắc nghiệt này sẽ khiến cho câu hỏi tích tụ qua bao tháng ngày dài sẽ đánh bật ra ngoài thành những quan điểm. Và thật là tiếc nếu những quan điểm đúng với thực tại mà không được nói lên, không được phản ánh. Bởi cái thực tại mà tôi nói lên ở đây nói về việc tôi và rất nhiều người khác đã, đang, sẽ, vâng, vẫn thực hiện hàng ngày, đó là đi học. Vì vậy tôi rất muốn có sự lắng nghe từ những ai quan tâm tới chuyện học hành và quan tâm tới chuyện giáo dục. Bởi với tư cách là một học sinh tôi thấy những gì mà chúng ta đang gọi là giáo dục đây hậu quả không hề tươi sáng với bất kỳ với thành phần trong xã hội.
Tôi là một học sinh lớp 12. Ở Việt Nam thì đây là giai đoạn khắc nghiệt nhất trong đời mỗi học sinh. Và chính sự khắc nghiệt này sẽ khiến cho câu hỏi tích tụ qua bao tháng ngày dài sẽ đánh bật ra ngoài thành những quan điểm. Và thật là tiếc nếu những quan điểm đúng với thực tại mà không được nói lên, không được phản ánh. Bởi cái thực tại mà tôi nói lên ở đây nói về việc tôi và rất nhiều người khác đã, đang, sẽ, vâng, vẫn thực hiện hàng ngày, đó là đi học. Vì vậy tôi rất muốn có sự lắng nghe từ những ai quan tâm tới chuyện học hành và quan tâm tới chuyện giáo dục. Bởi với tư cách là một học sinh tôi thấy những gì mà chúng ta đang gọi là giáo dục đây hậu quả không hề tươi sáng với bất kỳ với thành phần trong xã hội.
Trước
hết không có gì gọi là mới mẻ khi than vãn kiến thức thừa ở THPT hiện
nay. Để phủ nhận toàn bộ những ý kiến cho rằng đây là lời kêu ca phàn
nàn của một kẻ có bảng điểm bết bát như tôi, phải khẳng định luôn tôi
không hề bài trừ hay ghét bỏ một môn học nào cả. Tất cả những kiến thức
mà chúng ta đang phải học là những kiến thức mà chúng ta nên biết. Trải
qua hàng ngàn năm lịch sử đó là một gia tài vô biên và vô giá của loài
người. Nếu không có sự cống hiến và nghiên cứu của những người đi trước
sẽ không bao giờ có cho chúng ta được cuộc sống tân tiến và hiện đại như
ngày hôm nay.
Nếu
chúng ta chối bỏ nó, những tri thức ấy, có nghĩa là ta tự phủ nhận đi
nguồn gốc của mình, ta tự tay bóp chết tương lai của nhân loại. Tuy
nhiên, những kiến thức đó nó cần thiết ở mỗi mức độ nào đối với mỗi
người thì lại là một vấn đề khác.
Con
người ta sinh ra là khác nhau, tại sao tất cả lại phải hát triển theo
cùng một hướng giống nhau? Đồng ý rằng anh phải biết đọc, biết viết,
biết cộng trừ nhân chia, biết rất nhiều thứ, những thứ được gọi là kiến
thức phổ thông để làm nền tảng cho một cá nhân trước khi bước vào cuộc
sống tự lập. Nhưng có lẽ chăng chúng ta quy quá nhiều kiến thức vào hai
chữ “cơ bản”?
Nếu
có người hỏi tôi kiến thức đến lớp mấy là “cơ bản”? Với tôi lớp nào cũng
có những kiến thức cần phải học cơ bản cần phải học. Nhưng song hành
với chúng lại có quá nhiều thứ chẳng cơ bản và chẳng cần thiết chút nào.
Nếu
có người hỏi tiếp, thế học đến lớp mấy mấy thì đủ? Lớp 9 là câu trả lời.
Nhưng đủ của cái gì? Tại sao lại là lớp 9? Bởi vì tôi tin rằng ở độ
tuổi 14, 15 nhiều người đã đủ nhận thức được khả năng và xác định được
mục tiêu và xứng đáng được chọn lối đi riêng. Có những mục tiêu không
cần người theo đuổi phải nắm toàn bộ kiến thức THPT hiện nay. Có người
muốn làm lập trình viên. Người muốn làm đầu bếp nhà hàng. Người muốn làm
giám đốc ngân hàng, muốn làm thiết kế thời trang, người muốn làm Bộ
trưởng Bộ Giáo dục…, vô vàn các nghề. Đâu phải nghề nào cũng cần biết
đến phương trình chuyển động của chất điểm! Và nếu về sau anh làm một kỹ
sư vật lý liệu có cần phân tích hình tượng nghệ thuật trong một bài
văn? Nếu về sau anh làm một nhà văn liệu có cần dùng đến công thức tính
tần số alen hay là ghi nhớ một loạt danh pháp và phản ứng hoá học của
một loạt các thể loại ankan, anken, ankin, ancol, andehit….. abcxyz? Với
những hiểu biết hèn mọn của mình tôi không tin rằng có một nghề nào cần
đến toàn bộ kiến thức THPT cả. Giáo viên hay giáo sư cũng chỉ đi theo
một vài chuyên môn của mình, kiến thức liên ngành rộng đến đâu cũng tùy
vào tầm của anh. Vậy mà học sinh lại phải đáp ứng toàn bộ bài tập và bài
học của hơn một chục môn học như vậy hàng tuần thì phải làm thế nào?
Biết
nhiều thì cũng tốt thôi, nhưng để làm gì? Làm bài tập, làm kiểm tra,
làm bài thi. Thi đỗ rồi thì làm gì với chúng nữa? Nếu không làm được gì
có ích cho bản thân thì cuối cùng anh học để làm gì? Đánh giá nhau không
quan trọng ở việc anh biết được bao nhiêu, mà là anh làm được bao nhiêu
với những gì anh biết? Học lý thuyết lượng tử ánh sáng mà không mắc
được cái bóng đèn thì học làm gì? Học về phương pháp lai phân tích, quy
luật di truyền mà trồng một cái cây không lớn nổi thì học làm gì?
Kiến
thức chỉ có ích khi áp dụng vào thực tiễn, dù là lao động trí óc hay
lao động chân tay. Học phải đi đôi với hành. Có hành thì mới có hứng.
Không đủ điều kiện để hành mà cứ phải học thì chỉ có hại. Học phải có
mục đích, mỗi bài học phải tỏ rõ được vai trò của nó đối với cuộc sống
của 100% học sinh. Và cho đến giờ tôi không nhớ có lần nào giáo viên có
thể đề cập được đến mục đích thực dụng của tiết học hôm đó, trước khi đi
vào bài giảng. Không thể nói là hãy cứ học đi, chưa đủ trưởng thành nên
phải học tiếp, tiếp, tiếp mới chọn được con đường cho mình. Nếu coi đây
là một giai đoạn để thích nghi và lựa chọn cho tương lai thì tại sao
tất cả điểm số là một gánh nặng do phụ huynh và thầy cô luôn đòi hỏi
phải cân bằng được tất cả các môn như thế?
Kiến
thức SGK thì toàn lý thuyết thiếu thực tiễn, nhiều chỗ mang tính chất
hàn lâm đem đến cho số đông học sinh mà đâu phải ai cũng đầy đủ năng
lực, điều kiện và niềm yêu thích. Quỹ thời gian thì không đủ, nhiều bạn
trẻ thức thâu đêm học bài, như thế chỉ tổn thọ chứ chẳng được cái lợi
lộc gì. Giáo viên nào thông cảm thì lại dạy cho có hình thức, học sinh
như thế lại thiếu tôn trọng môn học, và gián tiếp ảnh hưởng đến tinh
thần đối phó trong công việc. Làm như thế mà mong có một tương lai sáng
lạn. Rất là thê thảm!
Ai
cũng phải thừa nhận rằng trong một cộng đồng cần có người giỏi ở lĩnh
vực này, người khá ở lĩnh vực kia. Trong một cộng đồng mỗi người làm tốt
chuyên môn của mình và chúng ta cộng cho nhau để tất cả lĩnh vực ngành
nghề được phát triển đồng đều một cách tốt nhất. Không cần đến một thế
hệ toàn những con người được đào tạo bài bản tất cả các kiến thức, lượng
giác tích phân đủ các loại định luật đủ các loại chất đủ các loại tác
phẩm văn học rồi đến khi hỏi thì nhiều người không biết mình sẽ làm các
công việc gì, mong muốn đạt được những điều gì, mục đích sống trên đời
là để làm gì? Rồi đến khi vào đại học, thì tùy những trường khác nhau mà
những kiến thức khác nhau, thứ mà chúng ta đã bỏ 3 năm trời ra để mà
nhồi nhét nó dần trở nên vô dụng do học sinh lãng quên.
Vì
sao quên? Có phải vì chẳng bao giờ dùng đến? Không. Không bao giờ dùng
đến nhưng học để biết thì vẫn nhớ được. Thế có phải vì vượt quá dung
lượng bộ nhớ cho phép nên nó tự đào thải? Cũng không. Một khi ta đã muốn
nhớ thì không bao giờ bị đào thải. Quên vì đa phần chúng ta không học
để mở mang hiểu biết cho bản thân mình. Ngay từ khi bước chân vào lớp
Một chúng ta đã lao theo cuộc đua của những điểm số, thành tích, danh
hiệu và xếp hạng. Mười hai năm học là 12 năm chạy đua với các kỳ thi bao
và kiểm tra. Kiểm tra miệng 15 phút, 45 phút, học kỳ 1, học kỳ 2, cuối
năm, thi tốt nghiệp, thi chuyển cấp, thi vào, thi ra, thi lên, thi
xuống…
Cái
mục đích cao cả của việc học là để trang bị cho người ta năng lượng
sống, năng lực tự học để có thể học tập và nghiên cứu cả đời thì bây giờ
nó đã biến dạng thành một mục mục tiêu khác: học để thi! Chúng ta đang
học để thi. Học để kiểm tra. Học vì đơn giản ai cũng làm như thế. Học để
không bị tách rời khỏi số đông. Làm theo số đông để cảm thấy mình được
an toàn. Học để có được một cái bằng, để người ta nhìn mình với con mắt
bao dung hơn. Hay nói cách khác học để đối phó với cuộc đời này mà không
hề có một niềm đam mê. Người ta bảo học gì học nấy, làm thế nào làm thế
nấy. Nay kiểm tra môn này, mai kiểm tra môn kia. Cắm đầu vào mà đối
phó. Đó là học thụ động. Tư duy thụ động chỉ có làm nô lệ mà thôi. Trong
khi chúng ta, theo cách mà người ta vẫn hay gọi là những chủ nhân tương
lai của đất nước.
Chính
cách giáo dục này đã tạo tiền đề cho tính cách đối phó được hình thành
và phát triển nên thói quen trong cả suy nghĩ lẫn hành động.
Trước
tiên phải nói thế nào là đối phó. Đối phó là một biểu hiện đặc trưng
điển hình của sự bị động. Nó thể hiện vị thế bị động của cá thể trước
các tác nhân không mong muốn. Sự đối phó sẽ xuất hiện khi ta cảm thấy
hay lường trước một nguy cơ sẽ hoặc đang ảnh hưởng xấu tới mình. Đối phó
tồn tại hai mặt có ích và có hại. Khi nó giúp chúng ta sinh tồn, chống
lại, chiến đấu với các mối đe dọa ở nhiều mặt, thì kết quả cuối cùng
mang lại sẽ cải thiện được cuộc sống của ta, đó là có ích. Nhưng nó sẽ
có hại khi trở thành bản chất, trở thành người bạn đời chung thủy trong
lối sống, nó biến ta thành kẻ bị động trong mọi vấn đề của xã hội. Nếu
không nhận thức được rõ nó rất dễ bị chi phối.
Có
lẽ ai cũng biết rằng cái cách mà chúng ta đang học ở trường cũng chỉ là
đối phó. Ở đây tôi không nói đến việc mang phao vào trước mỗi giờ kiểm
tra, bởi đó là điều hiển nhiên, tất yếu. Điều tôi muốn hỏi những ai là
học sinh: Nếu sáng mai không kiểm tra thì tối nay bạn có mở sách ra để
học không? Nếu mai được nghỉ mà ngày kia cũng chẳng kiểm tra môn gì thì
bạn có mở sách ra để đọc không? Nếu không có bất cứ một khái niệm nào về
thi cử, bạn có mở sách ra để làm giàu cho bản thân mình không? Nếu có
thì rất tốt, bởi cuộc đời này cần đến những con người như bạn. Còn nếu
không thì bạn cũng giống như tôi và tuyệt đại đa số đều học để đối phó
với các kỳ thi.
Chúng
ta đều tạo điều kiện cho tính đối phó được ký sinh trong nhân cách,
trong lối sống của mình. Như một cơn mưa dầm thấm lâu và nếu bị cảm nặng
thì có lẽ cả đời làm gì cũng sẽ chỉ làm hời hợt cho qua, không bao giờ
toàn tâm nghiêm túc với công việc được giao. Có rất nhiều biểu hiện từ
nhỏ đến lớn trong đời sống hàng ngày mà nếu hiểu rõ bản thân ta đều có
thể nhận ra. Thật đáng sợ nếu một ngày kia ta lại đối phó với chính lĩnh
vực mà mình đã từng đam mê, đã từng yêu thích. Nhưng xét cho cùng thì
biết làm sao được! Đó là hệ quả tất yếu của những kỳ kiểm tra liên miên
cộng với đống kiến thức nặng nề và đặc biệt là những đòi hỏi về điểm số
thành tích đến từ cả gia đình và nhà trường.
Nhìn
mặt ai cũng sáng sủa thế thôi, nhưng thực sự giáo dục đã biến phần
nhiều học sinh trở thành những con lừa lười biếng và dối trá, phải đánh,
phải thúc, phải ép mới chịu đi. Sẽ như thế nào khi đây là viễn cảnh của
những con người sẽ phục vụ đất nước trong tương lai? Vì khi đó chúng ta
không đối phó với giáo viên, với nội quy mà chúng ta đối phó với tất cả
mọi thứ.
Người
ta vẫn hay nói “học thì ấm vào thân”. Không thể phủ nhận câu này. Thậm
chí tính xác đáng của nó còn thể hiện trong từng từ ngữ, đặc biệt là từ
“ấm”. Không những là một nghệ thuật tu từ, nó còn chỉ ra một cảm giác có
thực. Có những lúc sau một thời gian dài tụt dốc, bắt đầu lo lắng, bạn
thấy chuyên tâm hơn vào môn mà bạn không thích vì bạn sợ bị trượt, và
đến lúc mà bạn giải được một bài toán mà cách đây mấy ngày bạn đọc còn
không hiểu được đề bài thì bỗng nhiên có một cảm giác nào đó nó vui
vui, có thể nói là “ấm áp”, nó lan tỏa khắp cơ thể. Bạn cảm thấy thoải
mái với môn học này hơn, và những ý nghĩ về sự đáng ghét chắc không còn,
thay vào đó bạn khoái chí với bản thân mình khi mỗi lúc lại thêm được
nhiều bài tập. Nhưng rốt cục, cái cảm giác ấm áp đó xuất phát từ đâu?
Nguồn gốc sâu xa của nó là cảm giác bạn được an toàn trước mỗi bài kiểm
tra, trước mỗi kỳ thi. Nó khác với sự hưng phấn mà chúng ta có được khi
đánh được một bản nhạc yêu thích trên cây đàn của mình sau một thời gian
dài luyện tập. Cái sự ấm áp đó giống như ta vừa dựng được túp lều bé
con để bảo bọc cho mình trước sự khắc nghiệt trên hòn đảo mà ta ghét
cay, ghét đắng. Thế thì đó là gì nếu không là một biểu hiện khác của sự
đối phó? Trừ khi môn học đó trở thành một trong những niềm đam mê yêu
thích của bạn. Có lẽ nhiều người không còn để ý rõ sự khác biệt của cảm
giác đạt được điều mình muốn, so với cảm giác làm được điều người ta
muốn mình phải làm được. Thế nên nhiều khi chúng ta cứ làm việc mà quên
đặt ra những câu hỏi. Có những người bằng lòng với sự đều đặn ấy đến mức
chỉ lo ăn học và kiểm tra mà không hề nghĩ đến công việc cho tương lai.
Có những người đi trước đã vượt qua các kỳ thi cũng không hề ngoảnh lại
nhìn để trả lời một cách thỏa đáng những tích cực, những hạn chế cũng
như những sự cần thiết của kiến thức ấy đối với cuộc đời họ. Và hậu thế
lại mãi mãi tiếp nối con đường như vậy.
Tôi
lại muốn đặt ra một câu hỏi: Thi cử là cái gì mà con người ta lại phải
đối phó với nó? Trong tình huống buộc phải đối mặt thì chúng ta lại đối
phó. Thi cử có phải là bắt buộc? Có. Không thi thì làm sao có điểm? Làm
sao có bằng? Làm sao được vào trường, ra trường? Không thi thì làm sao
có thể thi tiếp?
Bản
chất của một cuộc thi là tìm ra ai là người chiến thắng. Là sự tranh đua
giữa những con người có chung một niềm đam mê, một niềm toàn tâm mong
muốn được thể hiện bản thân và khát khao được về đích với vị trí thứ
nhất. Còn thi cử trong học hành ngày nay là xem ai có thể vuốt mồ hôi mà
thở phào nhẹ nhõm. Một đằng hoàn toàn chủ động, một đằng gần như bị
động.
Vậy ý
nghĩa của giáo dục có phải là đẩy con em thế bị động, vào sự căng
thẳng, mệt mỏi sau mỗi kỳ thi, mỗi ngày lên lớp? Thay vì ảo tưởng mỗi
khi giáo viên lên giảng bài học sinh hào hứng giơ tay đóng góp thì thực
tế học sinh chỉ sung sướng khi được thông báo nghỉ học. Người ta hào
hứng để chờ đợi tham gia các cuộc thi khác bao nhiêu thì học sinh lại
phát ớn trước mỗi kỳ thi bắt đầu bấy nhiêu.
Tại
sao chúng ta lại sợ nó đến vậy? Điểm số chính là nguyên nhân! Điểm số là
một khái niệm đầy bất cập. Trước hết ta tạm chấp nhận nó như một chiếc
thước minh bạch và sáng suốt để đo cái gọi là trình độ của con người.
Tạm chấp nhận nó đại diện cho lý tính, tài giỏi thì điểm cao, dốt nát
thì điểm thấp, trắng đen rạch ròi. Nhưng không! Để phủ nhận cho chính lý
tính đó, thì hiện nay, thậm chí từ trước đến nay điểm số luôn dính dáng
phần nào đến cảm tính. Nó có thể được nâng lên nâng xuống, được trừ
một, được cộng hai. Nó có thể trở thành công cụ bày để người ta bày tỏ
tình thương, để thể hiện lòng từ bi, chiếu cố, hay thậm chí để đem ra
dọa nhau. Cho nên điểm cao cũng có thể đạt được bằng gian lận mà thôi.
Vậy
thì chiếc thước này đã mất đi tính chất thứ nhất, đó là minh bạch. Và
chúng ta đều biết rằng chỉ số IQ chỉ là một phần nhỏ để nói đến trình độ
một cá nhân. Bên cạnh đó một bài kiểm tra luôn phụ thuộc vào tâm trạng
tức thời và vốn hiểu biết tức thời của người chấm điểm. Vậy thì cớ gì mà
điểm số còn giữ được tính sáng suốt của nó? Thêm nữa, điểm số bản thân
nó đã là công cụ để phân loại con người, hiển nhiên sẽ phát sinh sự bất
bình đẳng, sự tự phụ, sự tự ti, sự tị nạnh, cạnh khóe. Và đó là điều
không đáng có ở bất kỳ đâu, đặc biệt là bậc tiểu học. Tóm lại là nó
không minh bạch, không sáng suốt, nó chẳng có gì tốt đẹp. Chúng ta cuống
cả lên để chạy theo một thứ giá trị hão mà tưởng rằng là đang khẳng
định bản thân mình. Mà nếu lúc nào cũng lăn tăn hơn thua ba thứ điểm cao
thấp như vậy thì có lẽ cuộc sống sẽ luẩn quẩn trong những thứ đơn điệu
vô vị đến thế mà thôi.
Bệnh
thành tích từ đâu mà ra? Sẽ không có bệnh thành tích khi người ta không
biến bằng cấp thành tiêu chuẩn của quy chế để xét tuyển. Muốn không như
thế ta phải cắt bỏ cái gốc, cái rễ, nghĩa là cắt bỏ thành tích. Muốn
cai nghiện đương nhiên phải ngừng cung cấp thuốc cho con nghiện. Người
ta đánh giá nhau chủ yếu qua bằng cấp mà không phải đánh giá bằng chính
năng lực. Đó không chỉ là tâm lý chung mà còn là quy định chính thức ở
nhiều nơi.
Vậy
thì nhân đây tôi cũng nói luôn. Xét trong một chuyên môn hay một ngành
nghề, hay một cơ quan, chỉ có những thằng ngu mới không biết thằng nào
là thằng giỏi. Một người tài giỏi khi đứng ở vị trí lãnh đạo sẽ biết
dùng óc quan sát và năng lực của chính bản thân để đánh giá năng lực của
người khác. Còn một thằng ngu sẽ phải dựa dẫm vào những địa vị, bằng
cấp, học hàm để mà tuyển dụng nhau. Vậy thì chúng ta còn tiếp tay cho
những thằng ngu làm cái gì? Hay chúng ta lại muốn tiếp tay cho những
thằng tham ô, hối lộ?
Không
muốn có bệnh thành tích, ta phải cắt bỏ bệnh thành tích. Với tư tưởng
đó xét trong phạm vi nhà trường thành tích chính là điểm số. Đừng tạo ra
những điểm số. Đi học mà không có điểm đương nhiên nghe có vẻ điên rồ.
Nếu không dựa vào điểm thì lấy gì làm chỉ tiêu cho đánh giá. Với tôi
điểm số có cũng được nhưng đừng quan trọng hóa nó. Điểm số thực chất chỉ
là kết quả của một bài kiểm tra mà ở trường, ngoài môn thể dục, thì một
bài kiểm tra được định nghĩa là tập hợp những câu hỏi có tính hệ thống.
Những câu hỏi này đặt ra luôn có sẵn đáp án, câu trả lời cố định để
tính điểm. Người nào trả lời đúng vào cái đã có sẵn thì được điểm. Không
trả lời đúng cái đã có sẵn, không điểm. Như vậy điểm số rõ rang chỉ thể
hiện năng lực ghi nhớ những thứ đã được học mà không nói lên được những
năng lực khác, thậm chí không kiểm chứng được việc anh có hiểu những gì
mà anh nhớ hay không. Và vì điểm số mà người ta sẽ tìm ra nhanh nhất
câu trả lời có sẵn vào bài kiểm tra bao gồm các hình thức học tủ, học
vẹt, và gian lận. Làm như thế này không hề mang tính nghiên cứu và sáng
tạo. Nó đã và đang xảy ra ở hầu hết các môn trong trường học, ở các thái
cực khác nhau. Thậm chí những môn khoa học tự nhiên, tưởng như nó đòi
hỏi tư duy logic rất cao nhưng cũng đã trở thành những môn học thuộc
lòng các công thức để mà áp dụng vào giải bài tập. Bây giờ anh không
muốn học để thi, anh không muốn học thuộc bảng quy tắc lượng giác, rồi
anh không làm được bài tập, cuối cùng anh lại bị đánh giá là yếu kém về
tư duy. Thế thì quá mỉa mai và không đời nào tôi ủng hộ. Một khi đã có
điểm người ta sẽ chỉ học vì điểm.
Hãy để cuộc đời cho điểm mỗi cá nhân, nâng tất cả lên cao rồi sẽ biết ai là người có đôi cánh.
Năng
lực thì rất đa dạng. Trong xã hội có bao nhiêu hoạt động thì có bấy
nhiêu loại năng lực. Nói chung muốn đánh giá hãy nhìn sự tồn tại của cá
nhân đó, ảnh hưởng sự tồn tại của cá nhân ấy đến xã hội và môi trường
xung quanh. Nhưng ảnh hưởng đó là gì? Là công việc, là mọi hình thức tác
động của họ lên đời sống xung quanh, thông qua quá trình sinh hoạt cá
nhân và tương tác với tập thể, là giá trị của những sản phẩm họ tạo ra ở
mọi lĩnh vực, từ vật thể đến cho phi vật thể. Sản phẩm có sự ảnh hưởng
càng lớn có giá trị càng cao, không có ảnh hưởng là đồ vô dụng. Để trở
thành một cá nhân có giá trị và có ích cho cộng đồng anh phải tạo ra các
sản phẩm có giá trị. Mà những thứ có giá trị ảnh hưởng không bao giờ là
những thứ có sẵn bày ra cho ta thấy như đáp án trong bài kiểm tra.
Con
người ta khác cỗ máy ở chỗ nào? Chúng ta lập trình cho một phần mềm toán
học thì chiếc máy tính này có thể tính được mọi phép tính nằm trong
phạm vi nó được khoanh vùng. Ta đưa vào càng nhiều khái niệm toán học,
càng nhiều phương pháp giải cho phần mềm thì phạm vi hoạt động của nó
càng rộng lớn. Nhưng đến phút cuối cùng nó vẫn chỉ là một chiếc máy tính
không hơn không kém! Một công cụ lao động nô lệ cho con người! Đâu là
sự khác biệt giữa một con người tự do và một cái máy nô lệ? Đó chính là
khả năng đi tìm tòi khám phá những thứ mới mẻ mà không đợi ai viết ra
cho mình. Thế mà thật là kỳ lạ! Từ khi nào mà những con số này đã quyết
định cuộc đời tôi? Tôi không chọn học những thứ đó. Tôi không có nhu cầu
đạt điểm cao những thứ đó. Rõ ràng là tôi đủ sáng suốt để nhận ra sự vô
bổ của nó tác động tới vốn thời gian của mình như thế nào? Tôi muốn
bước đi trên một xa lộ. Tại sao lại cứ lôi tôi chạy vào trong các con
ngõ nhỏ để rồi phải vòng vèo mãi mới quay trở lại đường cái, khi lốp đã
mòn và khi gót đã già nua?
Sẽ
có những người lôi những tấm gương học tập ra mà nói. Người ta làm được
thì không có lý gì chúng mày không làm được. Thứ nhất, những người làm
được điều đó là số ít. Chúng ta không thể lấy số ít ra bắt số nhiều làm
theo. Không thể lấy cái cá biệt áp dụng cho toàn thể. Con người ta sinh
ra là khác nhau. Mục tiêu phấn đấu cũng khác nhau. Thứ hai, sự cố gắng
đó thường có ở những con người tự nhận thấy rằng đó là lối thoát duy
nhất để giúp cho họ vượt qua hoàn cảnh hiện tại mà không muốn sống mãi
với nó. Thế còn nếu trước mặt họ có một màn hình máy tính thì rõ ràng có
nhiều hơn một sự lựa chọn trong tay. Thật là vô lý khi chúng ta phải
tốn thời gian vào việc vô ích. Thứ ba, không phải chúng ta không làm
được. Chúng ta đều có thể làm được như những tấm gương kia bởi khả năng
của con người là vô hạn. Thậm chí rơi vào hoàn cảnh càng ngặt nghèo khó
khăn thì con người ta càng làm được những điều phi thường. Lịch sử và
khoa học đã chứng minh được điều đó.
Đúng
là không có lý gì mà chúng ta lại không làm được! Nhưng vì cái lý gì mà
chúng ta phải làm cho bằng được? Học với cái kiểu này thì điểm cao cũng
đâu có chứng minh được cái gì với thiên hạ? Ba cái điểm số với thành
tích học tập chẳng bao giờ có thể nói lên được bộ não của một con người.
Không nói đến chuyện anh có gian lận hay không! Nhưng giả sử với một
người được điểm 9 toán bằng thực lực đi, khi được hỏi bản chất của đạo
hàm là gì chưa chắc đã trả lời được trong khi vẫn làm được bài khảo sát
hàm số nhanh như chớp.
Đó
là thực trạng. Đó là phần lớn. Bởi học để thi nên giáo dục chỉ tạo ra
những cái đầu chỉ biết làm theo những cái gì người ta cho mà không cần
hiểu. Đó là những con người chỉ biết tính theo những công thức có sẵn
được học để làm cho xong bài tập mà không bao giờ để trở thành người tìm
được ra công thức. Nó thụ động là thế. Nó thiếu chủ động là thế. Đó là
vì sao TS Phạm Anh Tuấn nói với lối dạy áp đặt nhồi sọ, học vẹt, học…
thì trong trường hợp tốt nhất cũng chỉ cung ứng được cho xã hội những cá
nhân giỏi chuyên môn thật đấy song mang tư cách của kẻ nô lệ.
Giáo
dục phải đem lại cho con người ta năng lực tự học, tự nghiên cứu. Không
phải đem lại một mớ kiến thức, một đống đề luyện để mà đi thi. Thực
chất người làm giáo dục cũng chỉ muốn thế hệ nối tiếp có được một vốn
kiến thức vững vàng sâu rộng để đóng góp thật nhiều cho đất nước từ lĩnh
vực kinh tế, chính trị cho đến khoa học kỹ thuật, nghệ thuật. Nhưng có
lẽ cũng chính vì thế mà nó phát sinh tâm lý thừa còn hơn thiếu ở người
viết sách chăng? Có lẽ chúng ta muốn học sinh có kiến thức toàn diện
nhất ở mức có thể qua những quyển sách giáo khoa. Thừa thì đương nhiên
là tốt hơn thiếu. Và kiến thức thì nó luôn thú vị theo nhiều cách. Nhưng
chúng ta lại quên mất một điều rằng, phần thừa hãy để dành cho những
người có hứng thú có đam mê. Khuyến khích thái độ ham tìm tòi học hỏi
một cách tự giác, từ thiếu cho đến thừa, phải có một mức ở giữa dành cho
tất cả mọi người. Một cái ngưỡng thực sự là cơ bản bao gồm những kiến
thức, những kỹ năng, những lối sống mà ai cũng cần phải nắm vững trong
cuộc sống này, bất kể anh chọn con đường nào để đi. Cơ bản không có
nghĩa 1 + 1 = 2. Kết thúc một chương trình học cơ bản cũng phải đồng
nghĩa với việc anh phải chứng minh anh là người văn minh, có văn hóa. Mà
học hết lớp 12 hiện nay ra ngoài đường chưa chắc đã được gọi là có văn
hóa đâu, tuy rằng người ta vẫn quan niệm học ở trường là học văn hóa. Và
cơ bản cũng phải là học chắc kiến thức cơ bản chứ không phải là học
những kiến thức cơ bản một cách không đến nơi đến chốn. Học bao nhiêu
tác phẩm văn học đỉnh cao rồi mà thỉnh thoảng vẫn thấy có người phải
chữa lỗi chính tả rất ấu trĩ. Cái móng không chắc thì làm sao xây được
nhà? Cuối cùng chẳng có gì ra hồn.
Mà
thực sự là mâu thuẫn rất nhiều. Kiến thức thì mang tính hàn lâm lại đem
đi kiểm tra học sinh một cách rất bắt buộc.Chính sự bắt buộc này nó lại
khiến cho vẻ đẹp của tri thức nó trở nên xấu đi trong mắt rất nhiều
người. Tôi sợ học toán, tôi ghét học văn, tôi không thích các môn tự
nhiên, tôi chẳng ưa các môn xã hội. Các nhà văn nhà thơ quá cố đến giờ
còn sống hẳn phải xót xa khi thấy chính những đứa con tinh thần của mình
chỉ vì do lối giáo dục gượng ép đã vô tình đẩy học sinh ra xa của văn
chương như thế nào! Tự tay chúng ta dập tắt tinh thần hiếu học khi khiến
học sinh quay lưng với tri thức. Và như vậy học rất nhiều nhưng chẳng
mấy ai thích học. Và như vậy thay vì ảo tưởng là nhân dân càng ngày càng
chăm học thì nhân dân càng ngày càng lười học. Chúng ta bắt học sinh
học tất cả, nếu không thi trượt sẽ không có bằng. Vai trò sức mạnh của
bằng cấp trong xã hội ngày nay là nguyên nhân khiến cho người ta học để
thi. Kiến thức nặng nề là nguyên nhân khiến cho người ta phải đối phó.
Có người nói quá trình thi cử là một thử thách giúp các em rèn luyện ý
chí nghị lực vượt qua khó khăn để trở thành người có ích cho gia đình
và xã hội.
Nhầm to!
Thử
thách nghĩa là phải chịu khó, chịu khổ. Học mà còn thấy khổ thì cái gì
mới là không khổ? Người ta đi học là để giải quyết nỗi khổ, không phải
để rước nó vào thân. Chúng ta hoàn toàn nhầm khi nhắc đi nhắc lại câu
phải chịu khó. Tại sao lại phải chịu khó? Con người ta khi học phải thấy
sướng. Phải thấy thích học khi được tiếp thu tinh hoa bí kíp. Người ta
phải thấy hạnh phúc khi được chiếm lĩnh tri thức. Ai còn nhớ ngày bé
chúng ta cảm giác hào hứng vồ vập phấn khởi như thế nào khi được cầm
trên tay cuốn sách quyển truyện mà bố mẹ mang về sau mỗi giờ đi làm?
Càng lớn dần lên thì niềm ham thích tìm tòi hiểu biết nó đã mai một dần
rồi. Chỉ vì học!
Hơn
nữa một kỳ thi sẽ là rèn luyện ý chí nghị lực ở những người có đam mê.
Còn những người không có đam mê sẽ là rèn luyện khả năng học thuộc lòng,
học tủ, và sự luồn lách, dối trá. Cạnh tranh lành mạnh là chuyện phù
phiếm. Đã cạnh tranh thì không bao giờ có chuyện lành mạnh, nhất là khi
chúng quá đông! Chính những kỳ thi góp phần chặn lối tương lai. Ai cũng
phải cố bằng mọi cách để mà vượt qua! Tuy rằng một kỳ thi không nhiều
thì ít cũng cho điểm một cái gì đó của người đi thi. Nhưng những nội
dung thi mới là quan trọng thì vô bổ! Tốt nhất là nên bỏ đi. Vì ở đây
tôi dùng từ hại não. Chính vì cái sự nhọc nhằn này nhiều người coi đỗ
đại học là cái đích của cuộc đời. Đến khi đạt được rồi thì bắt đầu buông
thả. Coi như là sự trả đũa cho 12 năm gò lưng trâu bò vô tội vạ. Chính
chúng ta tự dồn mình vào thế bị động. Phải đối phó, dối trá, và lười
biếng. Tất cả là để hướng đến một tương lai tốt đẹp. Nhưng hãy mở to mắt
ra mà nhìn cái nền giáo dục nát bét dưới chân!
(Còn nữa)
Q.H ghi
Nguồn: http://hocthenao.vn/2013/04/22/su-tran-tro-cua-mot-ke-luoi-bieng-chau-chau-q-h-ghi/
Đăng nhận xét