Bài viết này (Psychologists Identify the Best Ways to Study) là
bản do các tác giả tóm tắt công trình của mình (Improving Students’
Learning With Effective Learning Techniques Promising Directions From Cognitive and Educational Psychology) và đăng trên Scientific American số 29 tháng 8, 2013
Tác giả: John Dunlosky , Katherine A. Rawson , Elizabeth J. Marsh , Mitchell J. Nathan và Daniel T. Willingham.
An Khương chọn dịch.
Minh họa (SV. Đại học Ngôn ngữ Anh, TVU, khóa 2007)
Làm thế nào để phân biệt được phương pháp học tập nào thật sự hữu ích
hay chỉ tổ làm bạn lãng phí thời gian? Một nghiên cứu mới đây lần đầu
tiên chỉ ra phương cách tốt nhất để thu nạp kiến thức.
Giáo dục thường tập trung vào nội dung bạn cần học, chẳng hạn như môn
đại số, hay các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hóa học, hoặc làm thế
nào để chia động từ. Tuy nhiên nếu học được cách học hiệu quả có thể
cũng sẽ quan trọng không kém vì nó sẽ đem lại ích lợi cả đời cho người
học. Học đúng phương pháp có thể giúp bạn tiếp thu kiến thức nhanh hơn,
hiệu quả hơn, khiến bạn có thể ghi nhớ thông tin trong nhiều năm thay
vì chỉ nhiều ngày.
Trong hơn 100 năm qua, các nhà tâm lý học giáo dục và tâm lý học nhận
thức đã nghiên cứu và đánh giá rất nhiều phương pháp học tập khác nhau,
từ cách đọc đi đọc lại đến cách tóm tắt kiến thức cho đến phương pháp
tự kiểm tra. Một số chiến lược học tập phổ biến đã giúp cải thiện rõ rệt
thành tích của người học, trong khi những chiến lược khác chỉ làm tốn
thời gian và không hiệu quả. Tuy nhiên, thông tin này chưa được phổ biến
đến người học và người dạy. Ngày nay, giáo viên không được nói cho biết
các phương pháp học tập nào là hiệu quả dựa trên chứng cứ thực nghiệm,
và học sinh cũng không được dạy cho cách sử dụng những phương pháp học
tập tốt. Trong thực tế, hai phương pháp hỗ trợ học tập mà người học sử
dụng nhiều nhất hóa ra lại không hiệu quả. Một trong số chúng thậm chí
có thể làm giảm đi kết quả học tập.
Một lý do chủ yếu cho hiện tượng nói trên là có một lượng rất lớn các
nghiên cứu về vấn đề này, đến nỗi gây khó khăn cho các nhà giáo dục và
cho người học trong việc xác định được phương cách học tập thiết thực và
thuận lợi nhất. Để vượt qua thách thức này, chúng tôi đã xem xét hơn
700 bài báo khoa học về 10 phương pháp học tập phổ biến. Chúng tôi tập
trung vào các chiến lược học tập dường như dễ sử dụng và có hiệu quả
rộng rãi. Trong đó, chúng tôi xem xét kỹ hơn đến một vài phương pháp rất
phổ biến với người học.
Chúng tôi chỉ khuyến nghị các phương pháp sao cho chúng phải có ích
trong nhiều điều kiện học tập khác nhau, chẳng hạn như khi sinh viên làm
việc một mình hoặc trong một nhóm. Ngoài ra, chúng phải hỗ trợ được cho
học viên ở nhiều độ tuổi, khả năng và trình độ khác nhau. Và nhất là
chúng phải được kiểm nghiệm thực tế. Học viên có thể sử dụng những
phương pháp này để làm chủ kiến thức trong nhiều môn học, và thành tích
học tập của họ sẽ được cải thiện theo mọi tiêu chuẩn đánh giá. Các
phương pháp học tập tốt nhất cũng sẽ có tác dụng lâu dài trong việc nâng
cao kiến thức và hiểu biết cho người học.
Sử dụng các tiêu chí này, chúng tôi xác định hai phương pháp có hiệu
quả nổi trội. Chúng có hiệu quả ổn định và lâu dài cho nhiều điều kiện
học tập khác nhau. Hơn ba phương pháp khác cũng được khuyến nghị trong
một số điều kiện học tập nhất định, và năm phương pháp khác – bao gồm
hai phương pháp học tập phổ biến – là không được khuyến nghị sử dụng.
Hoặc là bởi vì chúng chỉ có ích trong một số trường hợp rất hạn chế,
hoặc là vì chúng tôi không đủ chứng cứ để đánh giá chúng cao hơn. Chúng
tôi cũng khuyến khích các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu một số phương
pháp khác chưa được chúng tôi kiểm tra, nhưng học viên và giáo viên nên
thận trọng khi áp dụng chúng.
Hai phương pháp vàng
1. Phương pháp tự kiểm tra (Self-Testing): Tự kiểm tra đem lại điểm cao.
Mô tả phương pháp: Không giống như một bài kiểm tra chính thức để
đánh giá kiến thức, tự kiểm tra là việc người học tự thực hành để kiểm
tra chính mình, ở bên ngoài lớp học. Phương pháp này có thể bao gồm việc
sử dụng các tấm bìa (bằng giấy hoặc điện tử) để kiểm tra việc nhớ lại
hoặc trả lời các bài tập ở cuối một chương sách. Mặc dù hầu hết học sinh
đều muốn làm kiểm tra ít chừng nào tốt chừng ấy, hàng trăm thí nghiệm
cho thấy rằng tự kiểm tra giúp cải thiện việc học và giúp ghi nhớ được
lâu.
Trong một nghiên cứu, các sinh viên đại học được yêu cầu ghi nhớ các
cặp từ, một nửa trong số đó sau đó được tham gia một bài kiểm tra khả
năng nhớ lại. Một tuần sau, các sinh viên này nhớ được 35% các cặp từ
trong bài kiểm tra, so với chỉ có 4% đối với những sinh viên không tham
gia kiểm tra. Trong một thí nghiệm khác, các sinh viên đại học được tiếp
xúc với một bản dịch từ tiếng Swahili sang tiếng Anh. Tiếp theo, họ
dùng phương pháp tự kiểm tra để học một phần văn bản, phần văn bản còn
lại chỉ được họ đọc lại. Sinh viên nhớ lại được 80% trong phần mà họ đã
học bằng cách tự kiểm tra nhiều lần, so với chỉ có 36% cho phần mà họ
chỉ đọc lại. Giả thuyết của chúng tôi là việc tự kiểm tra thực hành sẽ
giúp tạo nên quá trình tìm kiếm trong não bộ liên quan đến khả năng ghi
nhớ dài hạn để kích hoạt các thông tin liên quan, qua đó hình thành
nhiều lối mòn ghi nhớ, giúp truy cập thông tin dễ dàng hơn.
Lứa tuổi nào có thể sử dụng phương pháp này? Bất cứ ai từ trẻ mẫu
giáo đến sinh viên y khoa năm thứ tư cho đến người có tuổi trung niên
đều được lợi khi sử dụng phương pháp tự kiểm tra này. Nó có thể áp dụng
được cho tất cả các loại thông tin không trừu tượng, bao gồm việc học
ngữ vựng, lập danh sách chính tả, và ghi nhớ các bộ phận của hoa. Thậm
chí nó còn cải thiện được khả năng nhớ lâu cho những người bị bệnh
Alzheimer. Tóm lại, phương pháp tự kiểm tra một cách thường xuyên có
hiệu quả nhất trong việc học, đặc biệt là khi người học nhận được thông
tin phản hồi cho các câu trả lời đúng của họ.
Phương pháp tự kiểm tra cũng hoạt động tốt ngay cả khi thể thức của
các bài kiểm tra khi thực hành khác với các bài kiểm tra chính thức. Tác
dụng có lợi của phương pháp này có thể kéo dài từ nhiều tháng cho đến
nhiều năm.
Phương pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có”. Nó chỉ
cần một lượng thời gian khiêm tốn và người học cần được huấn luyện một
ít hoặc thậm chí không không cần.
Sử dụng phương pháp này như thế nào? Người học có thể dùng các tấm
bìa để tự kiểm tra hoặc sử dụng hệ thống Cornell như sau: Trong quá
trình ghi bài trên lớp, hãy tạo ra một cột bên một lề của trang để ghi
ra các từ khóa hoặc câu hỏi. Sau đó bạn có thể tự kiểm tra bằng cách
duyệt lại các ghi chép này và trả lời các câu hỏi (hoặc giải thích các
từ khóa) được ghi bên lề.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả cao. Việc tự kiểm tra có thể
thực hiện được một cách rộng rãi trên nhiều thể thức, nội dung, lứa
tuổi, và khoảng thời gian cần ghi nhớ.
2 . Phương pháp phân bổ thời gian ôn tập (Distributed
Practice): Để đạt kết quả tốt nhất, hãy giãn rộng thời gian học của bạn
ra.
Mô tả phương pháp: Học sinh thường tập trung học nhồi ngay trước
khi có bài thi hoặc kiểm tra. Tuy nhiên nghiên cứu cho thấy việc phân
phối thời gian học tập hợp lý sẽ hiệu quả hơn nhiều. Trong một thí
nghiệm kinh điển, học sinh được học các từ tiếng Anh được dịch ra từ các
từ trong tiếng Tây Ban Nha, sau đó ôn lại trong sáu phiên. Một nhóm đã
ôn trong các phiên liên tiếp nhau, một nhóm ôn các phiên cách ngày và
một phần ba số học sinh còn lại đã ôn các phiên cách nhau 30 ngày. Các
học sinh trong nhóm cuối nhớ bản dịch tốt nhất. Trong một phân tích 254
nghiên cứu được thực hiện liên quan đến hơn 14.000 người tham gia, sinh
viên nhớ lại được nhiều hơn khi phân bổ thời gian học cách quãng (nhớ
được 47% của toàn bộ) so với việc học dồn (nhớ được 37%).
Lứa tuổi nào có thể thực hiện được phương pháp này? Phương pháp này
giúp ích được cho cả trẻ ba tuổi, lẫn sinh viên đại học và cả người lớn
tuổi hơn. Việc phân phối thời gian học hợp lý có hiệu quả cao cho việc
học ngữ vựng, học định nghĩa của từ, và thậm chí cả việc học các kỹ năng
như toán học, âm nhạc và phẫu thuật.
Phương pháp này có dễ thực hiện không? Câu trả lời là “Có.” Mặc dù
sách giáo khoa thường gộp các bài tập lại với nhau theo chủ đề, bạn có
thể ngắt chúng ra theo cách của mình. Bạn sẽ phải lên kế hoạch trước, và
phải vượt qua được trở ngại chung của người học là xu hướng hay trì
hoãn việc ôn bài.
Sử dụng phương pháp như thế nào? Khoảng cách lâu hơn giữa các lần ôn
bài thường có hiệu quả cao hơn. Trong một nghiên cứu, khoảng cách 30
ngày cải thiện kết quả nhiều hơn so với việc ôn bài vất vả cách ngày.
Trong một nghiên cứu dựa trên Internet về việc học ngữ pháp, tu từ và
logic, kết quả cao nhất đạt được khi các phiên ôn bài cách nhau khoảng
từ 10 đến 20% của khoảng thời gian mà người học cần phải nhớ được kiến
thức. Để nhớ một điều gì đó trong một tuần, các phiên học ôn nên cách
nhau từ 12 đến 24 giờ đồng hồ. Để nhớ một điều gì đó trong năm năm, các
phiên học nên cách nhau từ 6 đến 12 tháng. Mặc dù không có vẻ gì là như
thế, nhưng thực sự là bạn có thể ghi nhớ được thông tin ngay cả trong
những khoảng thời gian dài, và bạn có thể học lại một cách nhanh chóng
những gì bạn đã quên. Khoảng cách dài giữa các lần ôn bài là lý tưởng để
nhớ được các khái niệm cơ bản làm cơ sở cho kiến thức nâng cao.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả cao. Việc phân phối thời
gian học ôn hợp lý sẽ có hiệu quả cho người học ở nhiều độ tuổi khác nhau trong việc học tập ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nó rất dễ thực hiện và đã được sử dụng thành công trong thực tiễn.
Các phương pháp hạng nhì
Không như những gì được nói, các phương pháp học tập sau đây có hiệu
quả thấp, trong nhiều trường hợp bởi vì không đủ bằng chứng tích lũy hỗ
trợ cho chúng. Một số phương pháp, chẳng hạn như phương pháp hỏi đáp chi
tiết (elaborative interrogation), hay phương pháp tự giải thích
(self-explanation), chưa được đánh giá trong các tình huống giáo dục
thực tế. Một phương pháp khác đang nổi lên, được gọi là phương pháp thực
hành xen kẽ (interleaved practice), chỉ vừa mới bắt đầu được nghiên cứu
một cách có hệ thống. Tuy nhiên, những phương pháp này cho thấy chúng
cũng có hiệu quả đủ tốt để chúng tôi khuyến khích sử dụng trong những
tình huống được mô tả ngắn gọn ở đây.
3 . Phương pháp hỏi đáp chi tiết (elaborative interrogation): Khởi nguồn từ bản tính tò mò của trẻ 4-5 tuổi.
Mô tả phương pháp: Tò mò là bản năng tự nhiên của con người, chúng
ta luôn tìm kiếm những kiến giải về thế giới xung quanh mình. Một số
lượng lớn các bằng chứng cho rằng thấy rằng gợi ý người học trả lời các
câu hỏi “Tại sao?” cũng làm cho việc học tập dễ dàng hơn.
Trong phương pháp này, thường được gọi là phương pháp “hỏi đáp chi
tiết” (elaborative interrogation), người học đưa ra câu trả lời cho các
sự kiện, chẳng hạn như “Tại sao điều này có nghĩa là …?” hoặc ” Tại sao
điều này lại đúng?” Chẳng hạn, trong một thí nghiệm, học sinh đọc được
câu “người đàn ông đói bụng đã ngồi vào xe.” Các thành viên của nhóm hỏi
đáp chi tiết được yêu cầu giải thích lý do tại sao, trong khi nhóm khác
đã được cung cấp sẵn một lời giải thích, chẳng hạn như “người đàn ông
đói bụng đã lên xe để đi đến nhà hàng.” Nhóm thứ ba chỉ đơn giản là đọc
từng câu trên. Khi được yêu cầu nhớ lại ai đã làm gì (“Ai đã lên xe?”),
trong nhóm hỏi đáp chi tiết có khoảng 72% học sinh trả lời đúng so với
khoảng 37% trong các nhóm khác.
Nên sử dụng khi nào? Khi mà bạn đang học về những thông tin không
trừu tượng, đặc biệt là khi bạn đã có hiểu biết về chủ đề này. Sức mạnh
của phương pháp này tăng lên cùng với lượng kiến thức mà bạn biết về chủ
đề. Chẳng hạn, học sinh ở CHLB Đức sử dụng phương pháp này hiệu quả hơn
khi học về các tiểu bang của Đức so với khi học về các tiểu bang của
Canada. Có thể là vì kiến thức có trước về chủ đề cho phép người học đưa
ra lời giải thích phù hợp hơn cho lý do tại sao một điều gì đó đã xảy
ra.
Tác dụng của phương pháp này có vẻ ổn định theo tuổi tác, từ học sinh
lớp bốn cho đến sinh viên đại học. Phương pháp hỏi đáp chi tiết cải
thiện rõ ràng việc ghi nhớ các sự kiện, nhưng vẫn chưa chắc chắn rằng
liệu nó có làm tăng mức độ hiểu sâu hay không, và không có thông tin kết
luận về việc hiến thức được ghi nhớ kéo sẽ dài bao lâu.
Phương pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là “Có.” Nó chỉ cần
việc huấn luyện ở mức tối thiểu và thời gian tiêu tốn là ở mức hợp lý.
Trong một nghiên cứu, một nhóm hỏi đáp chi tiết cần 32 phút để làm một
nhiệm vụ mà một nhóm chỉ đọc cần 28 phút.
Đánh giá: Phương pháp này có hiệu quả vừa phải. Nó áp dụng được
cho khá nhiều chủ đề khác nhau, nhưng có thể không hữu ích lắm đối với
các chủ đề trừu tượng. Đối với người học chưa có kiến thức trước về chủ
đề đang học thì lợi ích của phương pháp có thể bị hạn chế. Nghiên cứu
thêm về phương pháp này là cần thiết để xác định xem liệu nó có thể áp
dụng rộng rãi hơn vào các tình huống khác nhau, và các loại thông tin
khác nhau nữa hay không.
4 . Phương pháp Tự Giải thích (Self-Explanation): Làm sao tôi biết?
Mô tả phương pháp: Người học phải đưa ra lời giải thích cho những
gì họ học, xem xét quá trình tư duy đối với những câu hỏi kiểu như “Câu
văn này cung cấp thông tin mới gì cho bạn?” “Nó có liên quan như thế nào
đến những gì bạn đã biết?” Tương tự như phương pháp nêu câu hỏi và trả
lời, phương pháp tự giải thích có thể giúp tích hợp hiệu quả thông tin
mới học được với kiến thức đã có sẵn.
Lứa tuổi nào sử dụng được? Phương pháp này mang lại lợi ích cho người
học từ bậc mẫu giáo cho đến sinh viên đại học, và giúp ích cho việc
giải toán cũng như giải các câu đố cần suy luận logic. Nó có thể được
dùng để học các chuyện kể cũng như học để thông thạo các chiến lược tàn
cục trong cờ vua. Ở trẻ em, phương pháp tự giải thích có thể giúp ích
trong việc học những khái niệm căn bản như việc học các con số hoặc hình
mẫu. Phương pháp này cũng giúp cải thiện trí nhớ, giúp hiểu sâu và giúp
giải quyết vấn đề – tác dụng của nó rất đa dạng. Tuy nhiên hầu hết các
nghiên cứu chỉ đo các tác dụng chỉ trong vòng vài phút, và ta không biết
liệu hiệu quả của nó có kéo dài được lâu hơn đối với những người kiến
thức hơn cao hoặc thấp hơn hay không.
Phương pháp này có dễ sử dụng không? Câu trả lời là không rõ ràng.
Một mặt, hầu hết người học chỉ cần được hướng dẫn ở mức tối thiểu và
thực hành ít hoặc không cần. Một bài kiểm tra của học sinh lớp chín cho
thấy rằng những học sinh không được huấn luyện có xu hướng chỉ diễn giải
lại điều được học chứ không phải là đưa ra lời giải thích thật sự. Mặt
khác, một vài nghiên cứu cho thấy rằng phương pháp này tiêu tốn nhiều
thời gian, tăng nhu cầu thời gian từ 30 đến 100% so với các phương pháp
khác.
Đánh giá: Phương pháp tự giải thích có lợi ích vừa phải. Nó áp
dụng được cho các môn học khác nhau và cho nhiều độ tuổi khác nhau đáng
kể. Các nghiên cứu tiếp theo phải xác định được xem liệu những tác dụng
của phương pháp này có lâu bền, và thời gian tiêu tốn nhiều cho nó là có
đáng giá hay không.
5 . Thực hành xen kẽ (Interleaved Practice): Trộn táo với cam
Mô tả phương pháp: Một cách trực quan, người học thướng có xu
hướng chia việc học ra thành các khối kiến thức, hoàn thành xong việc
học một chủ đề hoặc một dạng bài tập trước khi chuyển sang phần tiếp
theo. Nhưng nghiên cứu gần đây đã chỉ ra lợi ích của phương pháp thực
hành xen kẽ. Trong đó, học viên sẽ học luân phiên các chủ đề hay các
dạng bài toán khác nhau. Chẳng hạn trong một nghiên cứu, các sinh viên
đại học đã học cách tính thể tích của bốn dạng vật thể khác nhau. Đối
với phương pháp chia việc học thành khối kiến thức, họ phải hoàn thành
tất cả các bài tập đối với một dạng vật thể trước khi chuyển sang dạng
vật thể tiếp theo. Trong phương pháp thực hành xen kẽ, các bài toán về 4
dạng đã được trộn xen kẽ với nhau. Trong bài kiểm tra thực hiện một
tuần sau đó, nhóm sử dụng phương pháp thực hành xen kẽ làm chính xác hơn
43% so với nhóm học theo phương pháp chia khối kiến thức. Việc học xen
kẽ các kiến thức giúp người học có được kĩ năng lựa chọn phương pháp phù
hợp và khuyến khích họ so sánh các dạng bài tập khác nhau.
Khi nào nên sử dụng phương pháp này? Khi các dạng bài tập tương tự
nhau, có lẽ là vì bằng cách để chúng ở gần nhau thì dễ thấy sự khác biệt
giữa chúng hơn. Phương pháp thực hành theo khối kiến thức – làm việc
trên tất cả các bài toán cùng vào một chủ đề – có thể hiệu quả hơn khi
mà các bài toán có sự khác nhau nhiều, bởi vì khi đó nó làm nổi bật
những điểm chung giữa chúng.
Phương pháp thực hành xen kẽ có thể chỉ mang lại lợi ích những người
đã đạt đến một trình độ nhất định. Tác dụng của phương pháp này cũng lẫn
lộn cho nhiều loại nội dung học tập khác nhau. Nó giúp cải thiện kết
quả học tập đối với các bài toán đại số, và có hiệu quả đối với một
nghiên cứu trong việc đào tạo sinh viên y khoa khả năng diễn giải kết
quả chẩn đoán chứng rối loạn tim mạch. Có hai nghiên cứu về việc học ngữ
vựng cho thấy phương pháp này không có hiệu lực mấy. Tuy nhiên, với
những khó khăn mà nhiều học sinh gặp phải ở môn toán, phương pháp này
vẫn có thể là một chiến lược học tập rất có giá trị cho riêng môn này.
Nó có dễ thực hiện không? Câu trả lời có vẻ là “Có.” Một sinh viên có
động cơ học tập có thể dễ dàng sử dụng phương pháp thực hành xen kẽ mà
không cần bất kỳ hướng dẫn nào. Giáo viên cũng có thể sử dụng phương
pháp này trong lớp học: Sau khi đưa ra một dạng bài tập (hoặc chủ đề),
bước thực hành đầu tiên của phương pháp tập trung vào dạng bài đó. Ngay
khi đưa ra dạng tiếp theo, cần trộn lẫn bài tập dạng này với bài tập của
dạng trước. Phương pháp này có thể tốn nhiều thời gian hơn một chút so
với phương pháp chia khối kiến thức, nhưng như thế vẫn đáng giá, vì nó
giúp nâng cao thành tích học tập.
Đánh giá: Phương pháp thực hành xen kẽ có tác dụng vừa phải. Nó
giúp cải thiện việc học tập và ghi nhớ các kiến thức toán học, và tăng
cường các kỹ năng nhận thức khác. Mặc dù lượng tài liệu về phương pháp
này là ít, nhưng trong đó cũng đã có đủ kết quả tiêu cực để ta cần phải
bận tâm khi sử dụng nó. Có thể là phương pháp này không hoàn toàn tốt,
hoặc có lẽ không phải lúc nào nó cũng được sử dụng một cách thích hợp –
đây là những đề tài cho nghiên cứu tiếp theo.
Bài học rút ra
Tại sao người học không sử dụng các phương pháp học tập hiệu quả hơn?
Có vẻ như họ đã không được dạy những chiến lược tốt nhất, và cũng có lẽ
vì bản thân người dạy cũng không được đào tạo về các phương pháp đó.
Chúng tôi đã khảo sát sáu cuốn sách giáo khoa tâm lý giáo dục học, và
thấy rằng chỉ có một phương pháp – “học thuộc các từ khóa” – được xét
đến trong mỗi cuốn. Không ai được hướng dẫn nhiều về cách sử dụng, tính
hiệu quả hoặc sự hạn chế của các phương pháp học tập khác nhau.
Vấn đề thứ hai có thể là vì hệ thống giáo dục nhấn mạnh vào việc dạy
cho người học các kỹ năng tư duy phê phán, và nội dung kiến thức, dành
ít thời gian cho việc dạy phương pháp học tập. Điều này dẫn đến kết quả
có thể là những học sinh có thành tích tốt trong những năm đầu đời, khi
việc học tập được giám sát chặt chẽ, có thể gặp khó khăn một khi họ sẽ
phải tự quản lý việc học của mình ở trường trung học hoặc đại học.
Một số vấn đề, chẳng hạn như độ tuổi tốt nhất để học sinh bắt đầu sử
dụng một phương pháp nào đó, và khoảng bao lâu họ sẽ cần phải được huấn
luyện lại hoặc nhắc nhở về phương pháp, vẫn cần được nghiên cứu thêm.
Nhưng ngay từ bây giờ, người dạy đã có thể tích hợp các phương pháp học
tập thành công nhất vào trong giáo án để người học có thể theo đó mà sử
dụng. Ví dụ, khi chuyển đến phần kiến thức mới, người dạy có thể bắt đầu
bằng cách yêu cầu người học làm một bài kiểm tra thực hành bao gồm
những điểm quan trọng ở phần trước và phản hồi bài kiểm tra của người
học ngay. Người học có thể chèn thêm vào giũa những bài toán mới các bài
toán có liên quan ở trong các phần trước đó. Người dạy có thể khai thác
phương pháp phân phối thời gian ôn tập hợp lý (distributed practice)
bằng cách đưa ra lại các khái niệm chính trong quá trình dạy. Họ có thể
giúp người học sử dụng phương pháp đặt câu hỏi và trả lời (explanatory
questioning) bằng cách gợi cho người học xem xét trả lời cho những câu
hỏi “Tại sao?”
Những phương pháp học tập này không phải phương thuốc chữa bá bệnh.
Chúng chỉ đem lại lợi ích cho những người học có mục tiêu, và có khả
năng sử dụng chúng. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng rằng người học sẽ thu
được nhiều ích lợi trong hoạt động trên lớp, trong các bài kiểm tra, và
trong suốt cuộc đời họ.
Bản đầy đủ: http://www.psychologicalscience.org/index.php/publications/journals/pspi/learning-techniques.html
(Theo Hocthenao)
Đăng nhận xét