Tôi mượn hai chữ “định” và “tuệ” trong Phật giáo để nói với các em
một câu chuyện nhỏ. Xin các bậc phụ huynh đừng sợ tôi đưa các em vào thế
giới tương chao hoặc vào triết lý cao xa. “Định” và “tuệ” là những
chuyện hiển nhiên trước mắt, là kinh nghiệm thường xuyên của các em từ
khi bước vào nhà trường, ngay cả trước đó nữa. Các em có học gì khác
đâu? Học “định” để được “tuệ”, đơn giản chỉ có thế. Đây là chuyện giáo
dục sơ đẳng, không phải chuyện lý thuyết viển vông trên chốn đâu đâu.
Hãy nhìn em bé cắn bút trước một bài toán cộng trừ. Em đang luyện tập
trí óc. Mồ hôi em không chảy như người chạy bộ để luyện tập thân thể,
nhưng công phu tập luyện nào ai kém ai? Sinh ra, em đã có đủ mọi khả
năng để biết, nhưng mọi khả năng đều ở trong trạng thái tiềm tàng. Tập
luyện, tập luyện từng phút từng giờ, để phát triển những khả năng tiềm
tàng ấy thành hiện thực, đó là công việc của giáo dục.
Đánh vần, tập đọc, học thuộc lòng, cộng trừ nhân chia… tri thức nẩy
nở dần, ký ức nẩy nở song song, mỗi bước tiến của tri thức dựa trên mỗi
bước tiến của trí nhớ, ký ức này phát triển trên ký ức kia, cứ thế trí
nhớ tích tụ cả một kho tàng ký ức, để sàng lọc, để lựa chọn, để lấy ra
tri thức nào đáp ứng đúng cho mỗi tình huống, mỗi hoàn cảnh, mỗi giải
đố. Có ai thấy mồ hôi toát ra trong đầu em bé đâu? Nhưng cứ thế, em
trưởng thành, hôm qua bập bẹ chữ cái, hôm nay đọc sách làu làu. Bao
nhiêu khổ công thầm lặng!
Bài học đầu tiên: Sự chú ý
Em tập luyện cái gì trước hết? Chú ý. Không chú ý thì không bao giờ
đầu óc em bé trưởng thành, dù chỉ một bước. Ngôn ngữ Phật giáo gọi là
“định”. “Định” là cố gắng đầu tiên, cho nên là căn bản. Là căn bản, cho
nên cũng là khó nhất. Khó nhất cho em bé mà cũng khó nhất cho người lớn.
Bởi vì người lớn sinh ra từ em bé!
Hãy xem em bé chơi: tay nắm đồ chơi này rồi vứt, nắm đồ chơi khác rồi
vứt, loăng quăng không ngừng. Đến tuổi vào lớp, đố bé nào chăm chú được
một cái gì trong vài phút. Có cha mẹ nào không than vãn: con tôi không
ngồi yên, hết la hét thì cãi lộn, chọc ghẹo.
Cháu tôi, tám tuổi, làm bài luận tả cây chuối, đã xuống hàng với một
câu kết luận bất hủ: “Em rất thích cây xoài”. Cháu chỉ có thể tập trung
chú ý trên cây chuối trong mười câu, đến câu cuối thì cây chuối bay mất
trong đầu, cây xoài ngang nhiên chiếm cứ.
Trên ghế nhà trường, sự chú ý của em bé rất phức tạp. Trí óc em phải
liên hệ nhiều yếu tố khác nhau để nối kết chúng với nhau thế nào cho hợp
lý nhất. Nếu không chú ý, em sẽ không tìm ra được mối liên hệ, mà không
tìm được thì kết quả sẽ vô cùng tai hại cho tri thức, bởi vì dẫn đến
lầm lẫn. Nhưng nếu lầm lẫn mà biết lầm lẫn thì đó lại là một bước tiến
khác của chú ý, đưa đến việc tìm ra được đâu là đầu mối của lầm lẫn để
lần sau tránh một lầm lẫn tương tự.
Cứ thế, từng bước, từng bước, từ bài toán đến bài văn, giáo dục ở nhà
trường về tập trung chú ý mở ra cho em bé cánh cửa của tư tưởng. Ánh
sáng đó, thuật ngữ Phật giáo gọi là “tuệ”. Như ngọn đèn đuổi tăm tối ra
khỏi gian phòng, “tuệ” đuổi lầm lẫn ra khỏi trí óc. Biết thế nào là đúng
thế nào là sai, tư tưởng của em bé nẩy nở.
Học toán, em dễ hiểu hơn thế nào là lầm lẫn. Hai chiếc xe lửa, chiếc
trước chiếc sau, hoặc chạy ngược nhau, để cùng đến một nhà ga. Em phải
tính toán vận tốc thế nào để chiếc này chiếc kia êm ru đến trước nhà ga
an toàn. Tính đúng, hành khách bước xuống xe vui vẻ. Tính sai, xe cứu
thương phóng đến ào ào. Học văn, đúng sai khó biết hơn, nhất là lúc lên
cao, em học sinh bước vào lĩnh vực thưởng thức thơ. Nhưng dù toán hay
văn, chú ý đều phải tập trung từ những chi tiết nhỏ nhất, bởi vì sai một
ly đi một dặm.
Bài học từ… cái dấu phẩy
Ví dụ một chi tiết nhỏ nhất trong văn: cái dấu phẩy. Hèn mọn thế đấy,
các em ạ, vậy mà cái dấu phẩy dạy cho các em bài học chú ý thường xuyên
mà nếu không vận dụng cho tinh, hoặc là tư tưởng của em sẽ chạy bậy,
lộn tùng phèo, hoặc là em không diễn tả được tư tưởng rõ ràng cho người
khác hiểu. Tôi nhớ câu văn sau đây mà thế hệ chúng tôi học thuộc lòng vì
nằm trong một bài văn in trong sách giáo khoa, câu văn của Nguyễn Bá
Học:
“Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Tôi không nói đùa: bao nhiêu đồng chí đồng môn của tôi hồi mười tuổi
không hiểu nổi câu văn chỉ vì ê a đọc một mạch như đọc kinh, không chú ý
đến hai cái dấu phẩy. Ê a như vậy, câu văn nghe như thế này: đường đi
khó không khó mà khó… Con đường gì mà kỳ quái vậy, khó không khó mà khó
là cái làm sao? Loạn xà ngầu, tư tưởng không tìm ra được manh mối, tối
om như nhà không đèn. Chú ý đến hai cái dấu phẩy, ánh sáng mở toang! Nhà
Phật nói: “định” mở cửa cho “tuệ”.
Sách báo ngày nay xem chừng không mấy chú ý đến cái dấu phẩy hèn mọn,
nhưng dân gian thì có chú ý đấy. Biết đâu thầy giáo tài hoa nhất của
các em là tấm bảng khẩu hiệu to tướng mà tôi đọc được trên một ngã tư
lớn của thành phố: “Gia đình hai con vợ chồng hạnh phúc”. Bàn tay vô
hình nào đó đã phẩy một dấu phẩy hùng hồn sau chữ “vợ”, biến hạnh phúc
chung của đôi vợ chồng gương mẫu thành hạnh phúc riêng tư, kín đáo, của
một đức ông chồng trịch thượng thời hoàng kim phong kiến đa thê. Một cái
dấu phẩy, nghìn trùng xa cách!
Đó là những cái dấu phẩy hữu hình. Đi vào thưởng thức thơ, em học
sinh còn phải biết chú ý đến những dấu phẩy vô hình mà em tự mình khám
phá ra để thấy câu thơ hay hơn, tưởng tượng bay cao hơn, tư tưởng chính
xác hơn. Chẳng hạn câu này trong Kiều, diễn tả nỗi lòng của Thúy Kiều
trong đêm vắng, trước giờ bán mình chuộc cha:
Một mình âm ỷ đêm chầy
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
Một mình bên đèn, Kiều thức suốt sáng. Nàng khóc. Trong khuya vắng,
tất cả đều câm lặng, chỉ còn hai hình ảnh có hồn: đĩa dầu và nước mắt –
nước mắt là nhân vật chính, đĩa dầu là chứng nhân. Đĩa dầu vơi dần, nỗi
khổ đầy dần, như thử cái vơi của bên này tràn qua cái đầy của bên kia.
Câu thơ hay ở cách đối chọi giữa hai chữ “vơi” và “đầy”. Câu thơ còn hay
ở cách ngắt câu, ngắt ở “vơi” và ngắt ở “đầy”, khác với cách ngắt thông
thường trong thể lục bát. Đọc câu thơ mà không biết ngắt như vậy, cái
thần của câu thơ sẽ biến mất, hình ảnh vơi đầy mờ nhạt, tưởng tượng
nghèo đi, rung động không đến. Phải đọc: Đĩa dầu vơi / nước mắt đầy /
năm canh.
Đó là hai dấu phẩy vô hình làm nẩy nở khiếu thưởng thức thơ nơi em học sinh lớp mười, mười một.
Cũng vậy, với khả năng chú ý phát triển dần dần, em có thể khám phá
ra một sự lạ lùng kỳ diệu trong bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, và sẽ
thấy tại sao bài thơ hay đến thế. Đây là bài thơ nổi tiếng:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
Ngoài âm điệu, ngoài hình ảnh, ngoài cảm giác mà bài thơ gợi lên
trong tâm hồn người đọc, em học sinh có thể tự hỏi: tại sao “Em không
nghe” mà không phải “Em nghe không”? Nếu ví thử tác giả viết “Em nghe
không”, thì thi tứ của bài thơ sẽ bay đi hết. “Em nghe không” chỉ là một
câu hỏi. “Em không nghe” là cả một trời tưởng tượng.
Tưởng tượng nhà thơ đang thủ thỉ với bạn: lắng nghe, em, lắng nghe
những hình ảnh, những âm thanh, những rung động sâu kín nhất, mong manh
nhất, huyền ảo nhất của mùa thơ mộng nhất… Em không nghe? Nghe rõ hơn
nữa đi, nghe rõ tự trong lòng, kìa trăng, kìa lá, kìa nai, kìa xôn xao
thi tứ… em không nghe?…
Cùng với bạn của nhà thơ, em học sinh bị lôi cuốn vào chú ý, vào
“định”, để nhập vào bài thơ, vì với một bài thơ chứa chan cảm giác như
vậy, không nhập vào thơ thì không thấy hay đâu cả, không thấy mùa thu,
không mở được “tuệ”.
Chưa hết, em học sinh còn có thể chú ý vào cấu trúc của bài thơ và
khi đó mới thấy cái thần diệu của ngôn ngữ, mới thấm thía thi vị của một
dấu hỏi, của cách ngắt bài thơ tài tình sau hai câu, rồi sau ba câu,
rồi sau bốn câu. Hiếm có một bài thơ ngắt quãng thần kỳ như thế. Dấu hỏi
sau hai câu, rồi dấu hỏi sau ba câu, rồi dấu hỏi sau bốn câu.
Tuồng như nói xong hai câu, người bạn lơ đãng vẫn chưa nghe được,
phải nói ba câu để chú ý hơn; ba câu vẫn chưa hiệu quả, phải bốn câu…
Bốn câu, người bạn hình như vẫn chưa nghe thấy gì vì bài thơ tận cùng
bằng một dấu hỏi.
Nhưng đó mới chính là “tiếng thu”. Bởi vì chẳng có cái gì là thực
trong bài thơ cả. Đố ai biết “trăng thổn thức” là trăng thế nào, đố ai
thấy “chinh phu”, “cô phụ” ngoài cổ thi, mấy ai ở thành phố như bạn của
nhà thơ mà thấy được nai vàng nai đỏ?
Vậy mà hãy nghe kỹ trong lòng: có đấy, có tiếng thổn thức của trăng,
có tiếng rạo rực của vợ nhớ chồng, có tiếng xào xạc của lá khô. “Tiếng
thu” ấy chỉ có ở trong lòng vì mùa thu đích thực là mùa thu ở trong
lòng.
Mùa thu là cảm giác về thu, ấn tượng về thu, mông lung, huyền ảo,
không nói nên lời, cho nên bài thơ toàn là dấu hỏi, chấm dứt bằng dấu
hỏi, mỗi dấu hỏi là mỗi vỗ cánh bay vào tưởng tượng. Ai dám nói thưởng
thức thơ không đòi hỏi chú ý?
Chú ý còn làm phát triển ký ức. Không chú ý, đố em học sinh nào học
thuộc được bốn câu thơ. Nếu sau này em thành kịch sĩ, không chú ý, đố em
học thuộc được một vở tuồng. Định tâm và ký ức gặp nhau, nâng đỡ nhau,
làm sáng lên tư tưởng. “Tuệ” mở ra.
“Tuệ” mở ra khả năng lý luận
Nơi em học sinh, “tuệ” đó là khả năng lý luận. Trên ghế nhà trường,
không lúc nào em không ứng dụng khả năng lý luận. Mỗi ngày tôi để dành
được hai đồng, vậy trong mười ngày tôi để dành được hai mươi đồng.
Từ những lý luận đơn giản, cụ thể như vậy của bài toán đố, em đi dần
vào những lý luận trừu tượng. Thực sự, không lý luận nào là không trừu
tượng: em đâu cầm 20 đồng trong tay; 20 đồng ấy chỉ có trong cái đầu,
nhưng em biết đó là điều chắc chắn, hiển nhiên, không cần đếm.
Em đi dần vào lý luận trừu tượng như vậy với đôi chân luôn luôn bước
trên ký ức, ký ức học được ở trường, ký ức học qua sách truyện, lắm khi
ký ức bâng quơ, học đâu đấy, tưởng chừng vô dụng, vô bổ.
Hình ảnh của cái cân chẳng hạn, hình ảnh con sư tử, hình ảnh con ó
nắm trong chân này bó tên, trong chân kia nhánh ô liu… nếu chỉ là hình
ảnh suông, không có ký ức hỗ trợ, thì tư tưởng dẫm chân tại chỗ, nhưng
nếu có học đâu đó chút kiến thức, thì tư tưởng về bình đẳng, về sức
mạnh, về hòa bình, chiến tranh – toàn là những khái niệm trừu tượng –
trỗi lên trong óc.
Càng học cao, càng thu thập kiến thức, lý luận của em học sinh càng
xông trận, trận chiến của những tư tưởng đồng và bất đồng, về chính
những vấn đề mà hôm qua em chỉ mới nạp nhưng chưa suy: chiến tranh, hòa
bình, sức mạnh, bình đẳng.
Tiếp cận với ý tưởng của người khác, tiếp cận với dư luận, tiếp cận
với tuyên truyền, tiếp cận với những biến cố xảy ra trong lịch sử hay
trước mắt, em học sinh, nhờ kiến thức tích lũy, sẽ vận dụng chú ý soi
vào suy luận để tìm ra cho được phán đoán riêng của mình. Một nền giáo
dục xứng đáng với tên gọi ấy là nền giáo dục biết phát triển phán đoán
riêng của mỗi học sinh, xem đó như là cứu cánh.
“Cái gì suy nghĩ phân minh, cái ấy phát biểu rõ ràng”
Đó là nói chuyện cái đầu. Tư tưởng đâu có nằm mãi trong ấy. Tư tưởng
đâu có chịu bị cầm tù! Trước sau gì nó cũng phát ra, hoặc bằng miệng,
hoặc bằng ngòi bút. Ở đây cũng vậy, “định” vẫn là căn bản. Bút sa gà
chết, thói cẩn thận ấy, người cầm bút ở xã hội ta đã biết tận xương tủy.
Cái miệng cũng vậy, “nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy”, các cụ đã dạy.
Tôi miễn nói chuyện đó, tôi nói chuyện khác.
Tôi nói về cách phát biểu, phát biểu thế nào cho rõ ràng, chính xác,
mạch lạc một tư tưởng cũng chính xác, mạch lạc. Sinh viên của tôi ở đây
sợ nhất môn thi “giải thích và bình luận một bài viết” trước một đoàn
giám khảo.
Không những các bạn ấy phải tập trung chú ý cao độ trên từng dấu
phẩy, từng chữ, từng câu để hiểu, mà còn phải nói gọn gàng, trôi chảy,
khúc chiết, phân minh, trả lời những câu hỏi cũng phân minh, khúc chiết,
trôi chảy, gọn gàng. Chỉ cần nghe anh sinh viên nói, biết ngay đầu óc
của anh.
Tuyển chọn giáo chức, tuyển chọn nhân viên trong các xí nghiệp cũng
vậy. Không ai thấy được cái gì trong đầu người khác. Mà thấy! Thấy qua
lời nói. Thấy qua câu văn.
Thi hào Boileau của Pháp nói một câu giản dị mà tuyệt cú: “Cái gì suy
nghĩ phân minh, cái ấy phát biểu rõ ràng” (“ce qui se conçoit bien
s”énonce clairement”). Bởi vậy, mỗi khi bạn đọc cái gì mà thấy tối tăm
mù mịt, khoan nghĩ rằng mình dốt, có thể người viết là lang băm.
Câu thơ nói trên của Boileau nằm trong một bài thơ dài nói về mối
quan hệ khắng khít giữa tư tưởng và lời văn. Tôi dịch ra sau đây ba câu
thường được xem như kim chỉ nam của bất cứ ai viết :
Viết đi viết lại hai mươi lần một tác phẩm
Mài dũa không ngừng rồi mài dũa nữa
Đôi lúc phải thêm, nhưng lắm khi phải bớt.
Phảỉ bớt, phải bớt… Mỗi lời, mỗi chữ thốt ra, viết ra, phải đắn đo,
lựa chọn, chú ý tối đa đến mức chính xác. Vậy mà cũng phải biết bớt.
Nói, cũng như viết, là lúc phải “định”. “Định” để sắp xếp tư tưởng. Rồi
“định” để diễn tả tư tưởng. Không có ngôn ngữ thì không có tư tưởng.
***
Trên đây, tôi chỉ đem văn thơ để nói về chú ý, về “định”. Giá như đem
toán ra nói, chắc dễ hiểu hơn. Bởi vì văn thơ là thế giới của tưởng
tượng, mà tưởng tượng thì bay hoài chẳng đậu. Bay như vậy, đâu là tưởng
tượng, đâu là chú ý? Nhất là đầu óc lại lang thang trong chốn nước mây
của thưởng thức nghệ thuật.
Vậy mà văn thơ vẫn dạy người đọc chú ý như thường. Văn thơ giúp ta
nhìn, giúp ta mở mắt. Thường thường ta nhìn mà không thấy. Vì không để
ý! Văn thơ giúp ta thấy. Một cái thấy sáng hơn, lý thú hơn. Đó là cái
thấy của tôi lúc nhỏ đối với cây cau trong vườn nhà. Vẫn là cây cau ấy,
nhưng không hẳn cây cau ấy nữa khi lần đầu tôi đọc thơ Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Tôi nhìn: đọt cau cao vút, đón nắng ban mai đầu tiên của mặt trời vừa
mọc. Nắng rực rỡ và lá cau lấp lánh bao nhiêu niềm vui. Đẹp như vậy,
yêu đời như vậy, sao trước đó tôi không biết thấy? Vũ trụ tặng tôi niềm
vui đầu tiên trong ngày, sao tôi không biết nhận?
Cũng lúc nhỏ, khi học bài “Hàn nho phong vị phú” của Nguyễn Công Trứ,
tôi bỗng khám phá ra linh hồn của những cảnh tượng ngây ngô, tầm phào
hằng ngày diễn ra trước mắt tôi. Có gì đâu, một bóng nắng, một nền nhà
mưa dột:
Bóng nắng dọi trứng gà trên vách, thằng bé tri trô
Giọt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó
Lúc nhỏ, tôi cũng nghèo mạt như Nguyễn tướng công, nhà cũng dột, mái cũng thưa, đâu thấy bóng nắng đùa nghịch có duyên như vậy!
Sau này, cái thấy mà tôi học được trong thơ sâu kín hơn, lúc tâm hồn
thật lắng đọng. Thấy rồi, thì khoái cảm rợn người. Cũng mái tranh ấy,
cũng nhà trống ấy, định tâm lắm mới thấy bóng trăng khuya của Nguyễn Du:
Không ốc lậu tà nguyệt
Chiếu ngã đơn thường y
(Nhà trống trăng tà dọi, Chiếu trên áo của ta)
Lắng lòng rồi mới “thấy” trăng khuya: ánh trăng chiếu trên người vừa
trở giấc, người ấy nghèo xơ, bệnh hoạn, thân thế chẳng ra gì, cùng quẫn
nơi chốn quê người, tỉnh giấc sau khi nằm mộng thấy lại người vợ vừa
mất. Nhà rách, mái thưa, mộng tan, người đâu mất, chỉ thấy trăng… trăng
chiếu trên áo. Trăng ấy vừa thực, lại vừa gợi cảm.
Thực, vì chiếu trên áo nên người tỉnh giấc mới thấy; chiếu trên đầu,
trên tóc, làm sao thấy được? Nhưng lại rất gợi cảm, vì áo của người
nghèo mạt nằm kia chắc chắn phải là áo rách, áo sờn. Tả nỗi cô quạnh,
thê lương của người ấy, có gì tê buốt hơn mảnh áo sờn đẫm ánh trăng
khuya?
Cái thấy đó, bất cứ ai có chút tâm hồn đều biết khi ngắm một bức
tranh tĩnh vật. Ba bốn quả táo trên bàn ăn. Chuyện tầm thường của cái
nhìn hàng ngày, mấy ai định tâm mà nhìn quả táo? Nhưng hãy nhìn quả táo
trong bức tranh của Cézanne: một chút ánh sáng trên vỏ trái cây cũng
mang cả một linh hồn. Ngắm những quả táo trong tranh, tưởng chừng như
mình mới thấy quả táo lần đầu! Chiếc áo sờn đắm ánh trăng khuya cũng
vậy: đó là bức tranh tĩnh vật của thơ.
Và chính vì vậy mà sự thưởng thức thơ đòi hỏi hai mức định tâm: định
để thấy một cảnh thực mà mình lơ đãng không biết nhìn, và định để biết
cảnh thực mà mình vừa chợt thấy được thăng hoa bằng tưởng tượng, bằng
cảm giác, bằng ấn tượng. Cảnh đó vừa thực, vừa “thực hơn cả thực”. Thực,
như quả táo hàng ngày. Nhưng thực hơn cả thực, vì quả táo bỗng có linh
hồn. Khi thấy linh hồn của bài thơ, ấy là lúc “tuệ” bừng sáng trong
thưởng thức.
Bởi vậy, thơ hay thường đặt “tuệ” vào câu cuối, dồn tất cả sức sống
vào câu cuối, tuồng như người đọc được bài thơ dẫn tưởng tượng và cảm
giác phiêu du tận cùng non nước, và khi đến chỗ không đi được nữa thì
cánh cửa bật ra, cả một rừng hoa mai hiện ra trước mắt. Hai câu thơ trên
đây của Nguyễn Du là hai câu cuối trong bài Ký mộng. Thơ Nguyễn Du có
nhiều câu cuối thần kỳ như vậy. Cũng như thơ Đỗ Phủ. Cũng như thơ Đường.
Cũng như thơ của Anh, của Pháp, của Tây Ban Nha, của toàn thế giới.
Tôi đã bắt đầu bài viết bằng khả năng tập trung chú ý và ký ức mà các
em học sinh học được từ nhà trường. Tôi chấm dứt với ý ấy. Tận cùng của
“định” là “tuệ”. Giống như hoa mai nở bừng. Giống như câu cuối của một
bài thơ hay.
Nguồn: http://hocthenao.vn/2013/07/05/hoc-dinh-de-duoc-tue-tren-ghe-nha-truong-cao-huy-thuan/
Đôi điều về tác giả:
Cao Huy Thuần sinh tại Huế, học đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), dạy đại học Huế (1962-1964) trước khi qua Pháp du học.
- Đầu năm 1969, ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Paris và sau đó là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về Cộng đồng Châu Âu tại Đại học Picardie
- Hiện nay ông là giáo sư giảng dạy tại Đại học Picardie, Pháp. Cũng như một số trí thức Việt kiều khác, ông cũng thường xuyên về Việt Nam tham dự các cuộc hội thảo về các lĩnh vực chính trị, xã hội
- Ông đã in rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Với tiếng Việt, ông cũng đã in và viết rất nhiều bài báo tại Việt Nam và được đánh giá là các tác phẩm văn chương chính trị.
Một số tác phẩm:
- Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta (Triết lý luật và tư tưởng Phật giáo). NXB TP Hồ Chí Minh, 2000
- Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam, 1857-1914. NXB Tôn giáo, 2002
- Từ Đông sang Tây (chủ biên). NXB Đà Nẵng, 2005
- Tôn giáo và xã hội hiện đại. NXB Thuận Hóa/Phương Nam, 2006
- Nắng và Hoa. NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2006
- Thế giới quanh ta. NXB Đà Nẵng, 2007
- Thấy Phật, NXB Tri Thức 2009[2]
- Khi tựa gối khi cúi đầu
(Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_Huy_Thu%E1%BA%A7n)
Đăng nhận xét