---------- Chào mừng đến với blog của Phước Tâm! ----------

Phật giáo và văn học - Nguyễn Phước Tâm dịch

Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này, đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.



 Chân lý vũ trụ hệt như một bộ kiệt tác sống động - Ảnh minh hoa
Sau khi ngộ đạo, nhằm để đại chúng liễu đạt thực tướng vũ trụ, Đức Phật đã đem chân lý thâm áo tuyên thuyết với lời lẽ dễ hiểu qua mười hai loại thể tài (văn thơ), ấy là Mười hai bộ kinh, gồm: Trường hành (tức văn xuôi), Trùng tụng, Ký biệt (tức những lời truyền dạy do Phật Đà thụ ký, chứng nhận cho các vị Bồ-tát, các bậc Thanh văn, đệ tử mai sau thành Phật, và thuyết lý những việc sẽ xảy ra…), Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Tỷ dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Luận nghị. Đây là bản mẫu hay nhất của văn học. Mỗi một phẩm kiểu giống kịch đơn (lẻ) như trong kinh Đại bảo tích, kinh Phổ diệu là truyện trường thiên, kinh Tu lại là tác phẩm tiểu thuyết, kinh Tư ích phạm thiên là thể tài bán tiểu thuyết bán hý kịch, kinh Duy-ma-cật (Vimalakirti Nirdesa) là thơ mới (thơ Bạch thoại xuất hiện sau phong trào Ngũ Tứ) đẹp nhất thế giới, bảy tỷ dụ trong kinh Diệu pháp liên hoa là văn học ngụ ngôn hay nhất, kinh Hoa nghiêm là kịch tác trường thiên hùng vĩ nhất, kinh Bạch dụ được dịch ra nhiều thứ tiếng, được khắp nơi đón nhận; kinh Bổn sanh không những là truyện ký văn học mà ai cũng biết, trong đó hàng loạt câu chuyện được nhiều tác phẩm nổi tiếng trên thế giới viện dẫn rộng rãi như Y-tố[1] ngụ ngôn (Aesop’s Fables/truyện ngụ ngôn của Aesop), Thiên phương dạ đàm (Nhất thiên linh nhất dạ[2]). Ngoài ra, đệ tử của đức Phật đa số cũng giỏi về thơ ca kệ tụng, như Trưởng lão kệ Trưởng lão ni kệ, không chỉ tươi mát sâu xa, mà còn nêu cao lý tưởng tôn giáo, hiển bày luân lý giáo thuyết, được đánh giá rất cao trong lĩnh vực văn học.

Mãi đến Phật giáo Đại thừa hưng khởi, văn phong có xu hướng mượt mà sống động, vào thế kỷ 2 Công nguyên, các tác phẩm Phật sở hành tán, Xá lợi phất (Śāriputra) chi sở thuyết, Tôn đà lợi (Sundari) nan đà (Nanda) thi của Bồ-tát Mã Minh (đầu thế kỷ 2), đều là tác phẩm tiên phong trong văn học cổ điển Ấn Độ. Sau này có Tứ bách tán, Nhất bách ngủ thập tán Phật tụng được Mātcea thi sĩ phái Mã Minh sáng tác, cũng nhận được sự tôn sùng nhất trí của các nhà thơ trên lãnh thổ Ấn Độ.

Thế kỷ 4 Công nguyên, ngoài Bổn sinh man luận (Jātakamālā) của Đại sư Thánh Dũng và Thí dụ tập (Avadana-kalpalata) của nhà thơ Ksemendra (đều là những tác phẩm kinh điển Phật giáo) ra, thì trong đó nổi bật nhất là vở kịch thơ Sakuntala[3] của nhà thơ nổi tiếng Kãlidãsa Ấn Độ còn lưu danh ở đời. Bản kịch này chủ yếu là lấy câu chuyện trong kinh điển Phật giáo mà viết thành, vào năm 1789 sau khi dịch sang các thứ tiếng của các nước, thịnh hành khắp Châu Âu, lúc bấy giờ văn hào nước Đức Johann Wolfgang Goethe (1749-1832) sau khi đọc xong, xúc động và đã viết ra bốn câu thơ ngợi ca[4], không chỉ dừng lại ở đó, mà Goethe còn đem lời dạo đầu của bản kịch này dẫn dụng trong tác phẩm kịch thơ đồ sộ (gồm 12.000 câu thơ) Phù sĩ đức (Faust) của ông.

Tác phẩm kịch Phật giáo Long vương chi hỷ và tán ca Phật giáo Bát đại linh tháp phàm tán thuộc thế kỷ 7 Công nguyên, được Vua Giới-nhật (Siladitya, khoảng 590-647) bấy giờ thống nhất toàn Ấn Độ biên soạn. Trong văn học sử Ấn Độ chiếm một ví trí quan trọng; Cận đại, trong tác phẩm hý khúc của nhà văn đoạt giải Nobel Văn học Rabindranath Tagore (1861-1941) Ấn Độ, như Vũ giả chi cúng dườngChân đà lợi, cũng đều được lấy đề tài từ trong điển cố kinh điển Phật giáo. Địa vị văn học Phật giáo do vậy có thể thấy có những chấm sáng lấp lánh trên diễn đàn văn học thế giới.

Phật giáo sau khi truyền đến Trung Quốc, khí thế càng thêm mạnh mẽ, tựa ‘sấm vang chớp giật’, về phương diện văn hóa nảy sinh sức ảnh hưởng ‘đào núi lấp biển’, trong đó sự cống hiến về phương diện văn học được xem là lớn lao nhất. Nay khái quát năm điểm dưới đây:

1. Thúc đẩy sự phát triển Từ vựng học: Theo thống kê, do sự truyền nhập của Phật giáo, chí ít đã tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn từ ngữ mới, cũng có nghĩa là đã tăng thêm hơn ba vạn năm ngàn quan niệm mới, trong đó hoặc là từ diễn biến của danh tướng Phật giáo, hoặc là từ sự chọn lọc trong Phật điển, hoặc là được sinh ra từ truyện Phật giáo, hoặc là trích ra từ ngữ lục Thiền môn. Bởi vì, từ vựng của Phật giáo về khối lượng thì đồ sộ, đầy đủ mọi vật, về hàm ý thì dọc cùng tam tế (quá khứ, hiện tại, vị lai), ngang khắp mười phương (đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên, dưới), cho nên một mặt đã thúc đẩy sự biểu đạt ý niệm văn chương, nâng cao trình độ, mặt khác thông qua sức mạnh của ngôn ngữ văn tự, làm sáng tỏ quy luật nhân quả nghiệp báo, đối với sự tịnh hóa nhân tâm xã hội cũng có bổ ích to lớn.

2. Thúc đẩy sự hình thành Nghĩa sớ học: Để hệ thống Tam tạng mười hai bộ kinh được phân rõ ràng, nên sau khi truyền vào Trung Quốc, các tổ sư đại đức cũng dùng phương thức chỉnh lý thứ tự mạch lạc rồi biên soạn chú sớ (chú giải và chú thích), phân đoạn, chẳng những bắt đầu khơi dòng cho Nghĩa sớ học thời đại Tùy Đường (581- 907), đối với sáng tác văn chương thông thường cũng đã có sức ảnh hưởng ở mức độ đáng kể[5].

3. Thúc đẩy sự đẩy mạnh của Âm vị học (Âm vận học/Thanh vận học): Chữ Trung Quốc là một loại văn tự khối vuông, nhìn chữ từ hình dáng bên ngoài không thể nào phát âm được, Phật giáo sau khi truyền vào, để tiện cho việc dịch kinh điển Phật giáo, thời đại Ngụy Tấn thì có Tăng nhân tham gia nghiên cứu về âm vận (chỉ thanh, vận, điệu trong chữ Hán), mà sau này đưa ra phát minh biểu đồ như bốn thanh[6], chữ cái[7], phiên thiết[8], đẳng vận[9]. Vừa là thúc tiến sự phát triển của âm vận học, vừa là thúc đẩy sự hình thành thơ niêm luật (cách luật), khiến thơ từ Trung Quốc càng tăng thêm cái đẹp của âm tiết vận luật.

4. Thúc đẩy sự hình thành của Văn phạm Trung văn: Thời xưa Trung Quốc hoàn toàn không có cái gọi là lý luận văn phạm, mãi đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220 – 589), do việc phiên dịch kinh Phật, văn phạm của Phạn văn theo đó truyền vào, như Bát chuyển thanh[10], cũng như Đại sư Khuy Cơ (632-682) dựa vào văn điển Phạn ngữ soạn viết sách văn phạm Lục hợp thich[11], đều là sự tiên phong, dẫn đường của văn phạm Trung văn.

5. Thúc đẩy sự cải tiến của hình thức thể văn: Từ những năm cuối Đông Hán (184-220) đến Tùy Đường (581-907) trong vòng khoảng 600 năm, là thời kỳ thịnh nhất trong việc dịch kinh Phật giáo, người tham gia đều là những danh Tăng tài trí hơn người, dịch kinh chú trọng phù hợp nguyên nghĩa (nghĩa gốc), truyền thần đạt chỉ (chuyển tải ý chỉ như thật không sai lệch), không những kết hợp giữa thơ và văn xuôi (tản văn), mà nội dung đầy đủ, hình thức đẹp đẽ. Hết thảy Lục triều (Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần) trước nay đều quá chú trọng phong cách và cấu tứ biền ngẫu đối nhau, ngôn từ trau chuốt đẹp đẽ, nhất là thể tài và tư tưởng (quan niệm) Phật kinh phong phú, khiến cho người Trung Quốc xưa nay không thiên về tưởng tượng mở rộng tầm mắt, lại thêm vào đó tự viện Phật giáo Đường triều, Ngũ đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu) thịnh hành lấy phương thức tục giảng[12], dùng biến văn[13]biến tướng đồ (truyện tranh Phật giáo) phối hợp để hướng dẫn đại chúng; bằng hình thức thông tục hóa (đại chúng hóa) này, văn học Phật giáo càng gây nên sức ảnh hưởng to lớn. Loại biến tướng đồ vừa nêu trên na ná với “xem tranh kể chuyện” của các bạn nhỏ, có thể nói là khởi đầu cho văn học tranh vẽ; còn biến văn thì không chỉ đã hình thành những là bảo quyển[14], cổ từ[15], đàn từ[16] (một hình thức văn nghệ nhân gian) sau này, đối với các tiểu thuyết, hý khúc, tạp kịch Tống Nguyên, cho đến Côn khúc (tuồng Côn Sơn), kịch Hoàng Mai (một loại hý khúc của tỉnh An Huy, nhập từ Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), ca tử hý (một loại kịch địa phương ở Đài Loan và Phúc Kiến)…, cũng đều có công lao giúp đỡ dẫn dắt.

Cận đại, lấy đề tài từ hý khúc của Phật kinh, như Thiên nữ tán hoa của Mai Lan Phương (1894-1961), cho đến Ma đăng già nữ (1900-1976), đều giàu ý nghĩa giáo dục, nội dung biến hóa thú vị, cho nên được sự hoan nghênh của quảng đại quần chúng.

Ngoài ra, về phương diện thơ văn, Phật giáo cũng đã mang đến một cảnh tượng mới mẻ, giống như Chi Độn (314-366), cao tăng triều đại Đông Tấn, tài năng văn chương tinh tuyệt, thơ ca hoa mỹ, cùng với các nhà văn giỏi viết về thơ huyền ngôn (nội dung chủ yếu của trường phái thơ ca này là giải thích triết lý Phật giáo và Lão Trang) lúc bấy giờ như Tôn Xước (314-371), Hứa Tuần (?-?), Ân Hạo (?-?), Vương Hy Chi (303-361); giữa Chi Độn với các danh sĩ này có mối thâm giao đặc biệt, cũng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc; Tạ Linh Vận (385-33) nhà thơ thời Tấn từng tham gia dịch kinh, những sáng tác thơ ca của ông kết hợp giữa cảnh sơn thủy với nghĩa lý Phật pháp, được tôn là thủy tổ của thơ sơn thủy; Nhà Đường (618-907) về sau, thiền phong rất thịnh hành, nhiều học sĩ có kiến thức uyên bác bỏ Nho theo Phật, các nhà thơ trứ danh như Vương Duy (701-761), Đỗ Phủ (712-770), Bạch Cư Dị (772-846), Tô Đông Pha (1037-1101), do thường xuyên giao du qua lại luận đạo với các Thiền sư, lúc ngâm vịnh thơ ca, dòng thơ ấy thấm đẫm mùi thiền tự bao giờ mà không hề hay biết.

Trong Tăng lữ Phật giáo, những tác giả có phong cách viết văn (hành văn) nổi tiếng, cũng không phải hiếm hoi, ví dụ Pháp Châu đời Tùy (581-618, một thuyết nói: 619 hoặc 630), Tuệ Tịnh (578-?), Giảo Nhiên (720-804) đời Đường, Tề Kỷ (863-937), Quán Hưu (823-912), Hy Giác (864-568) Ngũ đại (907-960), Hy Duyệt thời Bắc Tống, Đàm Ngạc (1285-1373), Đại Khuê nhà Nguyên, Đức Ngôn đời Minh, Trí Phác (1636-?), Thánh Thông, Chiếu Thường, Độc Triệt (1586-1656) nhà Thanh. Từ Tùy Đường (581-907) về sau, các Thiền Tăng cũng thường đem ngộ cảnh mượn kệ tụng biểu đạt, bày tỏ. Nổi tiếng như tập thơ của Hàn Sơn (691-793), tươi mới tao nhã, được trong và ngoài nước đón nhận; Thơ kệ của Tuyết Đậu Trùng Hiển thì được ngợi khen là “có nếp của hàn lâm học sĩ”.

Qua các triều đại, đã biện soạn được nhiều ngữ lục, công án Thiền môn từ các pháp ngữ đối đáp của thiền Tăng; do vì lời văn dễ hiểu rõ ràng, câu chữ sinh động, trở thành tiên phong trong văn học bạch thoại cận đại. Cho đến ngày nay, trong văn học và hý kịch của Phật giáo vẫn không ngừng cách tân một các đột phá, như xuất bản kinh điển bạch thoại, dùng phương thức văn xuôi đem cổ văn tối nghĩa dịch sang bạch thoại; phát hành tùng thư truyện Phật giáo, dùng hình vẽ minh họa có màu sắc để dẫn dắt thiếu nhi; chế tác kịch truyền hình, phim truyện, phim hoạt hình, vũ kịch (kịch múa), đem truyện Phật giáo đưa vào màn ảnh; thành lập trung tâm phiên dịch Phật giáo quốc tế, đem các tác phẩm nổi tiếng Phật giáo hiện đại dịch sang ngôn ngữ các nước trên thế giới v.v… Tất cả những việc làm này, đều có công đức hướng dẫn giúp đỡ đối với việc phổ cập Phật pháp và tịnh hóa nhân tâm.

Thực ra, nhìn từ khía cạnh khác, chân lý vũ trụ hệt như một bộ kiệt tác sống động hùng vĩ, cái gọi là “Văn chương hữu bì hữu cốt tủy, dục tham thử ngữ như tham thiền, ngã tùng chư lão đắc ấn khả, diệu xứ khả ngộ bất khả đắc” (Văn chương có da có xương tủy, muốn xem hiểu văn chương, thì giống như tham thiền, ta được ấn khả từ các lão, chỗ nhỏ nhiệm của đạo Phật là chỉ có thể ‘ngộ’, mà không thể ‘đắc’- nắm lấy), làm thế nào để đại chúng thấu triệt chân lý vốn ngập tràn cùng khắp, có cuộc đời hạnh phúc tròn đầy, đấy chính là chỗ quan trọng mà Phật giáo muốn biểu đạt thông qua sự cọ vẽ của văn học.
Nguồn: http://giacngo.vn/nguyetsan/tulieu/2014/09/10/3E765A/

[1] Y-tố (Aesop, 620-560 TCN) là nhà ngụ ngôn nổi tiếng cổ Hy-lạp thế kỷ 6 trước Công nguyên. Tương truyền, tác phẩm “Y-tố ngụ ngôn” do ông biên soạn, sưu tập những câu chuyện dân gian Hy-lạp, đồng thời thêm vào điển tích Ấn Độ, Ả-rập, Cơ đốc giáo, tổng hơn 350 thiên.
[2] Tập truyện dân gian của Ả-rập cổ đại, còn có tên gọi là Thiên phương dạ đàm. Nội dung phong phú, quy mô đồ sộ, được Maksim Gorky (1868-1936) - nhà văn, nhà thơ, nhà bình luận, nhà chính luận, học giả (bạn của văn hào Nga Lev Nikolayevich Tolstoy và lãnh tụ Liên Xô Vladimir Ilyich Lenin) ca ngợi là “đài bia tưởng niệm tráng lệ nhất” của văn học dân gian thế giới.
[3] Tên vở kịch thơ này người dịch thấy một số nơi ghi là Shakuntala, là vở kịch của nhà thơ Kalidasa, được chọn dùng từ các truyện: Bổn sanh nữ Kinnara, mẩu thứ 7 bổn sanh Pali Nam truyền, bổn sanh Tu-thái-la thứ 83 Lục độ tập kinh, quyển 13 đến 14 Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ nại da dược sự.
[4] “Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và quả mùa thu. Một tiếng làm đắm say, nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn. Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất. Thì tôi gọi Shakuntala, tiếng đó nói lên tất cả!”.
[5] Tầm ảnh hưởng đối với sáng tác văn chương của Nghĩa sớ học, có thể kể đến các tác phẩm văn chương được viết nên bởi các nhà văn cổ như Bát đại gia đời Đường Tống. Cụ thể đời Đường có: Hàn Dũ (768-     824), Liễu Tông Nguyên (773-819); đời Tống có: Tô Tuân (1009-1066), Tô Thức (1037-1101), Tô Triệt (1039-1112), Âu Dương Tu (1007-1072), Vương An Thạch (1021-1086), Tăng Củng (1019-1083), sự kế thừa phân chia, chương tiết của nó, đều có thể thấy sự ảnh hưởng trong phân đoạn nghĩa sớ.
[6] Bốn thanh điệu của âm đọc chữ Hán là: bình, thướng, khứ, và nhập. Theo khảo cứu, cho thấy bốn thanh điệu này được tạo nên bởi chịu sự ảnh hưởng từ các thanh điệu trong quá trình đọc tụng kinh Phật. Trong bài viết Tứ thanh tam vấn (kỳ 2 quyển 9 Thanh Hoa học báo) của ông Trần Dần Khác (陈寅恪, 1890-1969) nói: “Sở dĩ phù hợp phân làm 4 thanh, mà không phân làm các thanh khác, là để loại bỏ sự khác nhau giữa cái gốc (bản) và sự tiếp biến (dị), mà đặt ra một loại gọi là thanh nhập, rồi (lại) phân biệt ba thanh còn lại là bình- thướng- khứ. Thống kê tổng hợp lại, thì phù hợp chia làm 4 thanh. Nhưng sở dĩ phân biệt với 3 thanh còn lại khác, thực tế căn cứ và mô phỏng cách đọc tụng 3 thanh trong kinh Phật lúc bấy giờ của người Trung Quốc, mà việc đọc tụng 3 thanh trong kinh Phật bấy giờ lại có nguồn gốc 3 thanh từ trong Thanh minh luận thời cổ Ấn Độ. Cứ vào Thanh minh luận của Vi Đà nước Thiên Trúc, gọi là thanh, thích hợp tương tợ với cái gọi là 4 thanh Trung Quốc, tức chỉ âm cao thấp của thanh, cũng giống như Anh ngữ gọi là Pitch Accent vậy. Thanh minh luận của Vi Đà dựa vào độ cao thấp của thanh ấy, mà chia làm 3: Một là Udātta, hai là Svarita, ba là Anudātta. Phật giáo truyền vào Trung Quốc, giáo đồ lúc đọc tụng kinh Phật, sự phân biệt 3 thanh này cũng theo đó mà nhập vào. Thanh nhập của tiếng Trung Quốc đều phụ vần đuôi các phụ âm k, p, t, có thể thấy là loại đặc thù, mà dễ phân biệt với 3 thanh khác nhất. Bình, thướng, khứ mặc dù giữa khoảng cách âm thanh (tiếng vang/âm hưởng) cao thấp lên xuống của nó có phân biệt, nhưng muốn phân biệt các thanh ấy, thì quả thật là không dễ xác định. Cho nên chính người Trung Quốc đã căn cứ và mô phỏng việc đọc tụng kinh Phật lúc bấy giờ, phân biệt xác định chia thành ba thanh: bình, thướng, khứ. Gộp với thanh nhập, hợp thành 4 thanh vậy.”
[7] Tức chỉ thanh mẫu (phụ âm) bắt đầu của âm chữ Hán. Người Trung Quốc thượng cổ không quá chú trọng đến phân tích âm (âm đọc của chữ), đến thời Lục triều, do đối với âm lý Phạn văn đã được một số kẻ sĩ biết rõ, vì thế đã sản sinh thêm danh mục (tên gọi) song thanh (lặp lại âm đầu, tức hai chữ hoặc nhiều chữ có cùng thanh mẫu), điệp vần (cùng vần/láy vần), do liên quan đến làm thơ áp vần (giao vần), công tác nghiên cứu “vận” (vần) đã phát triển rất sớm, và đã có tự điển vận thơ thành bộ để chỉ ra điều đó. Nhưng bộ phận “thanh” là đến cuối nhà Đường mới xuất hiện có “chữ cái”, mà những chữ cái này đều là do Pháp sư của Phật giáo sáng chế. Trong Đông thục độc thư ký, Trần Lễ (1810-1882) nói: “Từ cuối nhà Hán đến nay, dùng song thanh, điệp vần, thiết ngữ (một cách ghép vần cổ đại, chữ trên lấy thanh, chữ dưới lấy vần, dùng hai chữ chú âm cho một chữ), vần có từng mục: đông (), đông (), chung (), giang (), còn thanh thì chưa có, cuối nhà Đường Sa-môn bắt đầu công bố chỉ ra 16 chữ, gọi đây là chữ cái.” Tác phẩm Thông chí nghệ văn lược của Trịnh Tiều (1104-1162) và cuốn Ngọc hải của Vương Ưng Lân (1223-1296), đã từng ghi chép lại biểu đồ 36 chữ cái của Tỳ kheo Thủ Ôn (cuối Đường, thời kỳ Ngũ đại). Trong Thiên vận quán cầu tập Hòa thượng Chân Không triều Minh lại nói Hòa thượng Xá Lợi triều Đường sáng tạo 30 chữ cái, sau đó Thủ Ôn lại thêm 6 chữ nữa. Mục phụ kèm ‘Hoàng cực kinh thế giải khởi số quyết’ trong tác phẩm Quán vật giải thiên của Chúc Tất triều Tống từng nhắc đến 36 chữ cái của Hồ Tăng liễu nghĩa. Hoàng cực kinh thế thanh âm đồ Thượng Quan Vạn Lý chú thêm cũng nói: “Tự Hồ Tăng liễu nghĩa lấy 36 chữ cái làm chữ cái phiên thiết, dành được sự khéo léo của tạo hóa.” Mặc dù có nhiều cách nói khác nhau, nhưng chữ cái rõ ràng là do Pháp sư Phật giáo đặt ra, là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
[8] Một cách chú âm truyền thống Trung Quốc, phương pháp này dùng hai chữ để chú âm một chữ khác. Chữ trên và thanh mẫu chữ được chú giống nhau, gọi là song thanh; chữ dưới và vận mẫu chữ được chú giống nhau, gọi là điệp vần. Chữ trên cần thanh mẫu, không cần vận mẫu; chữ dưới cần vận mẫu, không cần thanh mẫu, đem thanh mẫu của chữ trên và vận mẫu của chữ dưới ghép lại với nhau, chính là âm được chú. Theo khảo chứng, sau Hán Ai Đế chính là lúc Phật giáo truyền vào, người học Phạn văn khi học ghép âm đã ngộ ra nguyên tắc phiên thiết.
[9] Cái gọi là đẳng vận, theo giải thích của Triệu Âm Đường (1893-1970) trong cuốn Đẳng vận nguyên lưu (Nguồn gốc và sự phát triển của Đẳng vận học Trung Quốc): “Thế nào gọi là Đẳng vận? Nói đơn giản, chính là biểu âm tiết, trong biểu âm tiết có ô, mỗi ô ngang tính một bậc, vần chữ được điền trong mỗi bậc, chính là đại diện cho mỗi âm. Nếu chúng ta đã luyện tập thuần thục âm biểu này rồi, thì không những biết chữ vần trong từ điển vận thơ thuộc nốt nào, mà còn biết độ lớn nhỏ của chúng, đây là phương pháp lấy giản chế phức của phiên thiết, cho nên ông Ngụy Kiến Công (1901-1980) nói ông ấy luyện âm biểu.” Còn về sự sản sinh của đẳng âm, trong Âm vận học của Trương Thế Lộc (1902-1991) có nói rõ như sau: Nước ta từ xưa đến nay nói đến cách đọc âm, do song thanh, điệp vận mà thành thanh mẫu và vận mẫu, từ thanh mẫu (chữ cái) và vận mẫu đã cấu thành biểu đẳng vận, chẳng qua là muốn nói rõ cái lý của phiên thiết. Trong Đẳng vận nhất đắc ngoại thiên của Lao Nãi Tuyên (1843-1921) nói: “Phiên thiết bắt nguồn từ đời Ngụy, trước song thanh, điệp vận. Song thanh, điệp vận bắt đầu từ Lục triều, trước đẳng vận. Do phiên thiết mà thành song thanh, điệp vận; do song thanh, điệp vận mà thành đẳng vận, từng bước nới rộng từng bước mật thiết, đều nhằm làm rõ cái lý phiên thiết, cho nên cái học của đẳng vận, là từ phiên thiết thiết lập vậy.” Tra cứu cái tên của song thanh, điệp vận mặc dù khởi nguyên từ Lục triều, mà cái lý của song thanh, điệp vận và phiên thiết, từ xưa đã có. Đến cuối nhà Hán về sau, học lý (nguyên tắc) ghép âm Phạn văn Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, thế là phát sinh phiên thiết, sản sinh tự điển vận thơ và chữ cái. Ứng dụng cấp, phối hợp chữ cái và nói rõ phiên thiết, đã sinh ra cái học đẳng vận. Trần Lễ nói: Từ Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Tùy, Đường, chỉ có phiên thiết, không có cái gọi là đẳng vận. Thời Đường Tăng đồ căn cứ mô phỏng chữ Phạn (kinh Phật), lấy 36 chữ, gọi đó là chữ cái (chữ chỉ thanh mẫu, phụ âm). Người Tống dùng đó để phân phiên thiết, tự điển vận thơ thành bốn bậc (tứ đẳng), sau đó có tên là đẳng vận. Truy tìm nguồn gốc ban đầu của đẳng vận, cho rằng là có khả năng đã xuất hiện trong Phạn thư (chữ Phạn, kinh Phật). Còn cho phiên thiết là đẳng vận, thì không thể nào vậy. Phiên thiết xuất hiện trước, còn đẳng vận xuất hiện sau vậy. Thực ra Đẳng vận học chẳng qua là giảng một bước ứng dụng chữ để nói rõ phiên thiết trong vận thư (từ điển vận thơ) mà thôi, là do cái học của thiết ngữ được thay đổi mà thành. Cho nên chúng ta cần vén dấu vết cội nguồn của Đẳng vận học, tự nhiên phải nói đến phiên thiết và chữ cái.
[10] Chỉ tám loại biến hóa của danh từ, đại danh từ vĩ ngữ hình dung từ (tính từ) trong Phạn ngữ, tức thể cách, nay gọi là chủ cách, ý là “thị” (là). Nghiệp cách, nay gọi là thụ cách, ý là “bả” (cầm, nắm). Cụ cách, hoặc gọi là tác cách, ý là “y” (dựa vào). Vị cách, hoặc gọi là dữ cách, ý là “vị” (để, với). Tòng cách, hoặc gọi là đoạt cách, ý là “tòng” (từ). Thuộc cách, nay gọi là sở hữu cách, ý là “đích” (của). Vu cách, hoặc gọi là y cách, ý là “vu” (ở). Hô cách, còn gọi là hô triệu thanh, ý là “a” (chà, à,...).
[11] Còn gọi là Lục ly hợp thích, là giải thích sáu nguyên tắc văn phạm của từ ghép trong Phạn ngữ. Lục hợp thích, tức gồm: Y chủ thích, tương vi thích, trì nghiệp thích, đới số thích, lân cận thích, hữu tài thích.
[12] Phật giáo Đông truyền trung nguyên, tiếp sau truyền dịch số lượng lớn kinh điển, tín đồ Phật giáo dốc sức vào việc phổ cập Phật pháp, lúc mới giảng kinh Phật, cố gắng cải biên (soạn lại) thành thể tài truyện thông tục (đại chúng), đồng thời phối hợp lấy âm nhạc thông tục ca hát ngâm vịnh, loại pháp hội giảng kinh này gọi là tục giảng. Thịnh hành ở triều Đường, Ngũ đại.
[13] Biến tức nghĩa là cải biên (thay đổi), viết lại. Lấy đề tài từ trong kinh điển Phật giáo giàu tính ký sự thần biến (thần kỳ biến hóa), và đồng thời thêm vào tự thuật chi tiết viết lại, khiến sự thông tục ấy sinh động mà phù hợp với việc giáo hóa dân chúng, gọi là biến văn.
[14] Là một loại văn hát nói, kể chuyện xen với hát (pha tạp giữa văn vần và văn xuôi) do biến văn đời Đường trực tiếp phát triển sản sinh. Được nảy sinh khoảng vào thời kỳ Tống Nguyên (960-1368), mà thịnh thành vào Minh Thanh (1368-1840). Kết cấu nội dung của bảo quyển đại để giống với biến văn, phần lớn chọn dùng ngôn ngữ thông tục dễ hiểu, phối hợp với âm nhạc, tiến hành giảng xướng (hát nói). Tự thuật bảo quyển câu truyện Phật giáo, rất được sự đón nhận của dân gian.
[15] Thời Minh Thanh lưu hành một loại khúc nghệ (nghệ thuật nói hát mang màu sắc địa phương lưu hành trong dân gian) ở phương Bắc Trung Quốc. Hình thức lấy “cổ” (trống, bảng) làm chính phối hợp với diễn xướng hát đệm, có nói có hát. Tên gọi xa xưa của cổ từ là đại cổ (hát nói, một loại khúc nghệ Trung Quốc, phối hợp nhạc đệm trống, bảng, đàn tam huyền). Bây giờ cũng có người nói các loại ca từ của đại cổ là cổ từ.
[16] Là biên soạn truyện thành vận ngữ (ngôn ngữ có vần điệu), có đạo bạch (nói lối trong tuồng kịch), có khúc từ (điệu hát), loại văn học hát nói dùng nhạc cụ dây phụ họa, lưu hành ở  các tỉnh miền Nam là đàn từ, thịnh hành ở các tỉnh miền Bắc là cổ từ, nguồn gốc từ Tống, Nguyên, thịnh thành vào Minh, Thanh.
0 comments

GS Ngô Bảo Châu: 'Đại học Việt Nam làm ngược với thế giới'

Những chuyện "khác người"về chính sách xây dựng đội ngũ ở các trường đại học Việt Nam so với thông lệ quốc tế, như quy trình tuyển chọn đánh đồng người làm khoa học với công chức, chế độ thu nhập dưới mức trung lưu và việc tạo nguồn thiếu cạnh tranh,v.v.. đã được GS Ngô Bảo Châu và PGS Ngô Quang Hưng phân tích kỹ tại phiên "Đối thoại giáo dục" diễn ra sáng nay, 31/7.
 Ảnh: GS Ngô Bảo Châu
Giáo sư: Công việc, không phải phẩm tước
Đề cập đến vấn đề bổ nhiệm giáo sư, GS Ngô Bảo Châu cho hay, ở các nước tiên tiến đều tạo một số điều kiện để vị giáo sư được bổ nhiệm có tiếng nói trong việc phát triển nghiên cứu chuyên môn của mình.Việc này ở Việt Nam được tổ chức một cách rất khác so với nhiều nước: Việc xét chức danh giáo sư được giao cho hội đồng chức danh giáo sư.
Gần đây,  Việt Nam đã có một số chuyển biến trong thủ tục phong và bổ nhiệm giáo sư. Cụ thể, hội đồng chức danh giáo sư nhà nước chỉ xét, công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư, việc bổ nhiệm thuộc về quyền của trường.
Tuy rằng việc bổ nhiệm ở cấp trường vẫn mang tính hình thức, nhưng đây là một chuyển biến tích cực và quan trọng về mặt chính sách. Nếu bản thân các trường nhận thức đầy đủ vai trò tự chủ khoa học của mình, họ sẽ phải chủ động đi tìm các nhà khoa học xuất sắc về đầu quân cho mình để cải thiện tính hấp dẫn của vị trí giáo sư.
Tổ chức lại quy trình phong, bổ nhiệm giáo sư chắc chắn sẽ là một trong những biện pháp có khả năng làm chuyển biến mạnh nhất chất lượng nghiên cứu giảng dạy của các trường đại học.
Việc này cần được làm lại theo hướng ưu tiên tính tự chủ khoa học của các trường đại học và xác định rõ hơn giáo sư là một vị trí công việc chứ không phải là một phẩm tước khoa học.
Chọn người "sống và thở" ở tiền tuyến tri thức
Theo GS Châu, quy trình tuyển chọn cán bộ giảng dạy và nghiên cứu hiện nay đang tuân thủ theo quy định chung của tuyển chọn viên chức, công chức. 
Quy trình hiện tại hầu như không có các yếu tố đặc thù cho môi trường hàn lâm, trong khi tính chất công việc của các nhân sự hàn lâm lại rất khác so với công việc thông thường của viên chức nhà nước.
Một đặc thù quan trọng của môi trường đại học hiện đại là lấy khả năng nghiên cứu khoa học làm tiêu chí số 1 và sự tự do học thuật - thể hiện qua quyền quyết định của Faculty (khoa) - là nền tảng hoạt động.
Tiêu chí hàng đầu cho việc tuyển dụng cho giảng viên và giáo sư đại học phải là khả năng nghiên cứu khoa học. Chỉ có những người “sống và thở” ở tiền tuyến và tri thức nhân loại mới có khả năng hiểu và truyền tải những kiến thức nền tảng và những phát kiến tiên tiến nhất cho lực lượng lao động trí não tương lai.
Hệ quả tất yếu của tiêu chí trên là tiếng nói tối cao trong việc tuyển chọn phải thuộc về những người có khả năng đánh giá trình độ, khả năng và tiềm năng nghiên cứu khoa học của ứng viên.
Như vậy cấu trúc của hội đồng tuyển chọn phải khác với hiện nay. Nó phải bao gồm những giáo sư giảng dạy tại khoa, có ý kiến về khoa học, không thể bao gồm nhân viên của các phòng ban, ví dụ như phòng ban tổ chức cán bộ.
Cơ cấu của các hội đồng tuyển chọn cũng thể hiện các cán cân quyền lực ở trường đại học. Ở một trường ĐH Mỹ, quyền lực nằm trong tay của Faculty, các ban bệ có trách nhiệm thực hiện quyết định của Faculty. Quyền quyết định nhân sự thuộc về Faculty là một biểu hiện rất cơ bản của tự do học thuật. Ở các trường đại học Việt Nam hiện nay, các ban bệ thường đứng trên Faculty.
Quyền lực của hệ thống quan liêu thể hiện quy trình tuyển chọn rắc rối và không đồng nhất. Quy trình này đủ rắc rối để cho Faculty không có khả năng thực hiện vai trò quyết định của mình nếu không có sự hỗ trợ của các phòng ban.
Đối với các ứng viên, tình hình còn khó khăn hơn nữa. Nếu không quen biết, họ không có khả năng vượt qua những rào cản mang tính chất hành chính.
Nói tóm lại,  tuyển chọn cần phải được minh bạch hóa, tuyển ứng viên với một quy trình mở. Trong tuyển chọn phải ưu tiên hàng đầu tiêu chí khoa học, và cả quyền quyết định về cho những người có thẩm quyền khoa học.
Ràng buộc lớn nhất: Chế độ thu nhập cứng nhắc
GS Ngô Bảo Châu cho rằng, chế độ thu nhập cứng nhắc hiện tại là một trong những ràng buộc lớn nhất cho mọi chính sách nhân sự đại học. Và có lẽ, đây là yếu tố chủ đạo làm nên các vị trí hàn lâm thiếu tính hấp dẫn các cá nhân xuất sắc. 
Cán bộ nghiên cứu giảng dạy đại học là công chức hoặc viên chức nhà nước, chế độ thu nhập của họ được điều chỉnh bởi quy định chung về thang lương của công viên chức nhà nước.
Với thang lương hiện tại, mức lương cơ bản của giảng viên đại học không đảm bảo cho họ một mức sống trung lưu trong xã hội (mức sống trung lưu cao cho giảng viên nghiên cứu luôn là điều kiện cần cho một hệ thống giáo dục tốt, để nghiên cứu tốt thì ứng viên tuyệt đối cần thời gian tư duy tự do, không bị ràng buộc bởi "cơm, áo, gạo, tiền").
Tạo nguồn: Chỉ ưu tiên tuyển "quy hoạch"
Theo GS Châu, một trong những chính sách phổ biến ở các trường ĐH Việt Nam là “tạo nguồn”. Các sinh viên giỏi được giữ lại trường, trong nhiều trường hợp được hỗ trợ du học, làm luận văn tiến sĩ ở nước ngoài. Những người này bị ràng buộc bởi một lời hứa sau khi học xong sẽ quay lại làm việc cho trường. Trong một số trường hợp, họ bị ràng buộc bởi Chính phủ khi nhận học bổng.
Bỏ qua một số tiêu cực ắt có trong việc lựa chọn những sinh viên được ưu tiên đi nước ngoài, biện pháp tạo nguồn hiện đang là biện pháp mang lại hiệu quả tích cực nhất trong bối cảnh hiện tại. Nhờ cơ chế tạo nguồn mà nhiều trường ĐH Việt Nam còn duy trì được việc trẻ hóa đội ngũ với những nhà khoa học trẻ, ít nhiều có trải nghiệm trong môi trường quốc tế.
Tuy nhiên,  quy trình tạo nguồn cũng phản ánh những điểm yếu nhất trong công việc xây dựng đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu của các trường đại học. Đó là sự thiếu hấp dẫn của vị trí làm việc, thiếu tính cạnh tranh trong tuyển dụng và thiếu tính linh hoạt trong tổ chức cán bộ.
Tính thiếu hấp dẫn của vị trí làm việc là nguyên nhân khiến người ta cần ràng buộc bằng cam kết những sinh viên được đi học ở nước ngoài. Các ràng buộc này sẽ có những hệ lụy như phương pháp tạo nguồn mang nặng tính chủ quan; các trường chỉ ưu tiên tuyển chỉ những người mình đào tạo ra, những đối tượng mình “quy hoạch”…Những  người trẻ được đào tạo từ nguồn “khác” trở nên hãn hữu. Thiếu cạnh tranh, tất yếu chất lượng giảm.
Về mặt học thuật, sự thiếu "máu mới" trong tuyển dụng và đào tạo sẽ dẫn đến trì trệ trong nghiên cứu. Thầy và trò cùng một lò ra sẽ có ít các giao thoa ý tưởng cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
Sự ràng buộc này cũng cực kì thiếu linh hoạt cho cả cá nhân những giảng viên được đi học và cho quy hoạch cán bộ của trường.
Kết quả của quá trình dài như vậy sẽ bị chi phối bởi nhiều rủi ro và trên thực tế không có gì để đảm bảo chất lượng đầu ra ngoài "niềm tin". 
Bên cạnh đó, một kế hoạch dài hơi sẽ hạn chế đáng kể tính linh hoạt trong chính sách khoa học của các trường đại học, trong khi môi trường quốc tế biến động đòi hỏi các trường phải liên tục thích nghi...

Một số đề xuất
- Quy trình tuyển chọn thống nhất cho tất cả các trường đại học trong cả nước tiến tới tạo một thị trường tuyển dụng cán bộ nghiên cứu và giảng dạy thông suốt trong cả nước.
- Quyết định của Hội đồng tuyển dụng cần được hiệu trưởng phê duyệt trên cơ sở báo cáo của Hội đồng khoa học và thư giới thiệu đến từ bên ngoài. Quyết đinh tuyển dụng và lý lịch khoa học của những người được tuyển phải được công bố công khai.
- Lấy việc bổ nhiệm giáo sư làm trọng tâm cho việc thực hiện tự chủ khoa học của các trường đại học. Nhận thức rộng rãi giáo sư là một vị trí công tác chủ chốt, chứ không phải là một phẩm tước danh dự
- Nới lỏng hệ thống thu nhập: bên cạnh thu nhập thông thường theo thang lương công chức, cán bộ khoa học giảng dạy có thể được hưởng thu nhập đặc biệt với nguồn từ trong và ngoài ngân sách, do các trường đại học chủ động quyết định.
- Trong kế hoạch đầu tư xây dựng trường, bên cạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cần chuẩn bị kinh phí để đầu tư xây dựng đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy. • Thiết lập cơ chế và chính sách để “tận dụng nhân lực thời vụ cao cấp”.
- Lấy thành tích xây dựng và nâng cao chất lượng của đội ngũ nghiên cứu giảng dạy để đánh giá năng lực lãnh đạo trường đại học. Lấy thu nhập cán bộ khoa học giảng dạy làm một tiêu chí để đánh giá, xếp hạng các trường đại học.

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/189950/de-xuat-manh-me-cua-gs-ngo-bao-chau-ve-nhan-su.html
Xem thêm: http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/gs-ngo-bao-chau-dai-hoc-viet-nam-lam-nguoc-voi-the-gioi-3025200.html
0 comments

Không nghiên cứu, làm sao phát triển? - Lương Hoài Nam

Khi bảo vệ một vấn đề, chính sách, quy định ở chốn nghị trường hay trên các phương tiện truyền thông, tác giả của chúng rất hay sử dụng các cụm từ "trên thế giới", "ở nhiều nước", "qua kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế". Chúng làm cho người đọc yên tâm về "chất lượng quốc tế" của các công việc đó.
Ảnh: Tác giả
Thực tế không hẳn như vậy.

"Trên thế giới" là thế giới nào? "Ở nhiều nước" cụ thể là những nước nào? "Kinh nghiệm quốc tế" cụ thể là của ai? Nguồn thông tin đâu? Rất ít khi tìm được câu trả lời đầy đủ, thuyết phục cho các câu hỏi này.

Hầu hết lĩnh vực của chúng ta đều lạc hậu, hầu hết cách làm, thủ tục của chúng ta kém hiệu quả kinh khủng so với nhiều nước khác trong ASEAN (trừ Lào, Campuchia, Myanmar), chưa nói đến việc so sánh với các nước công nghiệp phát triển ở các khu vực khác. Nhưng các cụm từ yêu thích nêu trên có thể tìm thấy dễ dàng trong các văn bản của bất kỳ lĩnh vực nào. Số đoàn ra nước ngoài khảo sát, học hỏi kinh nghiệm không phải ít. Thế nhưng, chỉ xem cách đào tạo, cấp bằng lái xe, hay hệ thống biển báo giao thông ở Việt Nam đã thấy ngay một sự thật là chúng ta chẳng hề nghiên cứu, tiếp thu tử tế kiến thức nhân loại. Nhiều lĩnh vực ở trong tình trạng như thế. Chúng ta thường nghiên cứu và hiểu biết thế giới hời hợt, phiến diện, nhưng lại tưởng là biết hết, hiểu hết.

Nhưng thôi, hãy lướt qua một số con số biết nói về cái gọi là "nghiên cứu" ở nước ta và của các nước khác trong lĩnh vực "Nghiên cứu & Phát triển" ("R&D").
Các thước đo chính về tiềm lực R&D của một quốc gia là tổng chi cho R&D và tổng số các bằng sáng chế được đăng ký bảo hộ.

Mỹ là nước chi nhiều tiền nhất cho R&D, ở mức 2,8% GDP. Năm ngoái, Mỹ chi 450 tỷ USD, năm nay dự kiến chi 465 tỷ USD cho R&D. Mỹ chiếm nhiều nhất bằng sáng chế PCT (Patent Cooperation Treaty) thuộc Tổ chức sở hữu trí tuệ quốc tế (WIPO), cụ thể là 57.239 trên tổng số 205.300 bằng trong năm 2013.

Người Việt Nam chúng ta thường nghĩ là Trung Quốc chỉ giỏi ăn cắp công nghệ và làm hàng nhái chứ tài giỏi gì! Xem ra, cái chúng ta biết là nông thôn Trung Quốc, chứ không phải cả nước Trung Quốc. Trung Quốc chính là nước đang chi nhiều tiền thứ nhì cho R&D (2013: 258 tỷ USD, 2014: khoảng 284 tỷ USD). Theo dự báo, chi R&D của Trung Quốc sẽ vượt Mỹ vào năm 2022. Trung Quốc chiếm thứ ba số bằng sáng chế PCT: 21.516 bằng trong năm 2013, sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2013, Việt Nam ta có 17 bằng PCT (2012 có 13 bằng).

Mà thôi, không so số lượng bằng sáng chế PCT với các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc nữa, so với các nước nhỏ hơn vậy. Hàn Quốc: 12.386, Singapore: 837, Malaysia: 310...

Israel là một quốc gia nhỏ trên sa mạc cằn cỗi, nhưng lại là nước xuất khẩu lớn các hàng hóa nông sản. Họ rất mạnh trong các lĩnh vực công nghệ tin học, hàng không, quốc phòng... Mỗi năm Israel chi 4,3% GDP cho R&D. Năm 2014, họ có 1.611 bằng sáng chế PCT.

Tóm lại là không nên so sánh chúng ta với các nước về số bằng sáng chế PCT mà bi quan. Chúng ta làm ra chưa bằng con số lẻ của thiên hạ. Nhưng chúng ta có thể tự hào là chúng ta có không ít cơ sở, trung tâm R&D. Theo số liệu cập nhật đến hết năm 2011, cả nước có khoảng 700 đơn vị R&D cấp trung ương (thuộc các Bộ) và hơn 1.000 đơn vị R&D cấp địa phương hoặc doanh nghiệp. Số đơn vị R&D cấp trung ương như vậy là nhiều. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp Việt Nam có các hoạt động và chi phí R&D.
Ngần đấy cơ sở, trung tâm R&D mà mỗi năm chỉ sản sinh được một vài chục sáng chế đăng ký PCT thì lạ nhỉ?

Tôi không hiểu các viện, các trung tâm R&D thuộc các cơ quan, doanh nghiệp làm những việc gì và chi bao nhiêu tiền, nhưng mỗi lần bước chân vào các siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Phan Khang, các siêu thị ăn uống và đồ gia dụng Maximark, Co-op, tôi không nhìn thấy các sản phẩm của "R&D Việt". Trên thị trường máy móc xây dựng, phương tiện giao thông - vận tải, máy móc nông nghiệp... cũng không thấy.

Tôi thấy bảo là trong tương lai Việt Nam sẽ xuất khẩu ôtô. Tôi nghĩ, đây chắc là ôtô với thiết kế, thương hiệu ngoại, lắp ráp tại Việt Nam, có một vài chục phần trăm linh kiện sản xuất tại Việt Nam. Tôi nghĩ thế vì đến cái ấm điện, bếp điện, tủ lạnh, lò nướng, máy giặt, máy hút bụi... ta còn chưa thiết kế, sản xuất được cho ra hồn, thì làm sao thiết kế, sản xuất được ôtô có tính cạnh tranh về chất lượng, giá cả?

R&D là điểm khởi đầu của bất kỳ sản phẩm hàng hoá nào có hàm lượng chất xám, dù trong công nghiệp, nông nghiệp, y dược... Từ R&D đến thiết kế, từ thiết kế đến sản xuất, từ sản xuất đến tiêu thụ - đó là chuỗi giá trị các sản phẩm. Ta không chú trọng và làm tốt ở ngay khâu đầu tiên, làm gì có sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam đi vào các hệ thống phân phối toàn cầu?

Đã đến lúc phải nghiêm túc trả lời câu hỏi: các cơ sở, trung tâm R&D của nước ta có năng lực R&D hay không?

Nguồn:  http://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/khong-nghien-cuu-lam-sao-phat-trien-3024231.html
0 comments

5 điều chưa thể lý giải bằng khoa học - Linh Anh

Sự tồn tại của ma, quái vật bigfoot hay cảm giác Déjà Vu là những thắc mắc phổ biến của con người trong nhiều năm qua, tuy nhiên vẫn chưa được khoa học phát triển giải thích rõ ràng.
Ảnh minh họa: Wikimedia Commons
1. Ngáp
Ngáp là một phản xạ vô điều kiện và phổ biến của con người và nhiều loại động vật, với biểu hiện thông thường là há miệng rộng và thở hơi ra thật dài. Phản xạ này còn có thể "lây truyền" từ người này sang người kia.
Nhiều ý kiến được đưa ra xung quanh nguyên nhân và mục đích của hiện tượng ngáp ở người, tuy nhiên dường như chưa có nghiên cứu chuyên sâu mang tính khoa học. Một số giả thiết cho rằng, ngáp có thể giúp xoa dịu hoạt động quá tải của não bộ hay kiểm soát nhiệt độ của não, bằng cách tăng lượng máu lưu thông được truyền đến hàm, cổ, các xoang rồi sau đó loại bỏ nhiệt từ lượng máu này khi hít thở sâu. Tuy nhiên, phản xạ ngáp được cho là xuất hiện ít hơn vào thời tiết nóng, khi không khí ít có khả năng làm mát cơ thể.
Theo một giả thiết khác, ngáp có thể là một tín hiệu dấu hiệu đánh thức con người và giúp chúng ta tỉnh táo hơn. Về sự lan truyền ngáp, các nhà khoa học cho rằng, đây có thể là cách thể hiện sự thấu cảm giữa người với người. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác lại đưa ra kết luận trái ngược.
2. Ma
Theo kết quả khảo sát của CBS News năm 2005, 48% công dân Mỹ tin rằng ma có tồn tại, trong đó hầu hết phụ nữ đều tin vào điều này. Một phần năm trong số những người được phỏng vấn cho biết, họ từng nhìn thấy hoặc cảm thấy sự hiện diện của ma.
Các nhà khoa học hiện đại chưa từng nghiên cứu sâu về chủ đề này, tuy nhiên nhiều giả thiết gây tranh cãi về ma quỷ vẫn còn tồn tại đến nay. Hạ âm, loại âm thanh có tần số thấp hơn ngưỡng nghe thấy của con người, được cho là có thể gây nhiễu tầm nhìn và khiến nhiều người nghĩ rằng họ nhìn thấy thứ gì đó.
Sự xuất hiện hoặc tồn tại của ma đối với nhiều người có thể là do ảo giác, ảnh hưởng từ sự nhiễm độc carbon monoxide.
3. Déjà Vu
Déjà vu trong tiếng Pháp có nghĩa "đã nhìn thấy". Đây là cụm từ mô tả việc con người có cảm giác xa xăm, bí ẩn và khó tả về những sự kiện hay hình ảnh như từng chứng kiến hay nhìn thấy trước đây. Ví dụ, một phụ nữ bước chân vào toà nhà mà trước đó cô chưa từng đến, nhưng có cảm giác khung cảnh này quen thuộc một cách kỳ lạ.
Nguyên nhân hình thành Déjà vu vẫn là một bí ẩn, mặc dù có nhiều ý kiến được đưa ra nhằm giải thích cho hiện tượng này. Nhiều người cho rằng, Déjà vu là những hình ảnh về cuộc sống từ kiếp trước, hoặc liên quan đến trực giác và tâm lý của con người.
Trong một nghiên cứu, các chuyên gia nhận thấy một người đàn ông khỏe mạnh có thể trải qua hiện tượng Déjà vu khi người này uống thuốc để ngừa cúm. Déjà vu cũng có thể xuất hiện khi não bộ của người mã hóa không đúng cách một ký ức mới, hoặc không phản ứng khi thiết lập một cảm giác quen thuộc nào đó.
4. Bigfoot
Bigfoot là một sinh vật có nhiều tên gọi, ví dụ nó được gọi là Yeti khi được cho là xuất hiện ở dãy Himalaya, "người đàn ông hoang dã" ở Trung Á hay Yowie ở Australia. Mặc dù vậy, sự tồn tại thực sự của bigfoot vẫn là câu hỏi đối với giới khoa học.
Các bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của bigfoot chưa từng được thiết lập. Giới chuyên gia cũng chưa tìm thấy bằng chứng nào về răng hay xương của chúng, mà chỉ biết đến qua lời kể nhân chứng và những bức ảnh. Có giả thiết cho rằng, việc nhìn thấy của bigfoot thường liên quan đến các loài động vật to lớn, có thể dễ gây nhầm lẫn với người.
5. Hiệu ứng giả dược (placebo)
Hiệu ứng Placebo, có nghĩa là "tôi làm vui lòng", được bác sĩ áp dụng để tác động đến yếu tố tâm lý của người bệnh, tạo cho họ sự phấn khởi, tin tưởng để mau hết bệnh. Những viên thuốc giả chỉ chứa đường và không có hoạt động dược lý được sử dụng trong nghiên cứu y tế nhằm chứng minh thuốc trị liệu thực sự có hiệu quả hay không.
Tuy nhiên trên thực tế, hiệu ứng này có thể gây hoang mang hơn so với kỳ vọng ban đầu. Theo một số nghiên cứu gần đây, phương pháp này vẫn có tác dụng khi bệnh nhân được thông báo rằng họ chỉ đang uống thuốc giả. Một thử nghiệm khác cho thấy người được bôi kem giảm đau giả có cảm giác về hoạt động ít hơn ở vùng cảm nhận đau trong não bộ.
Việc xác định tính hiệu quả và quá trình tác động của phương pháp này để giảm đau, điều trị vết thương hay giúp bệnh nhân dễ ngủ hơn, hiện vẫn chưa được làm sáng tỏ.
(Theo Popular Science)
 Nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/5-dieu-chua-the-ly-giai-bang-khoa-hoc-3024550.html


0 comments

Trao đổi với tác giả bài viết “Nhân một câu văn của Hòa thượng Tinh Vân” - Nguyễn Phước Tâm

LTS: Nguyệt san Giác Ngộ số 192, ra vào giữa tháng 3-2012, ở mục Trao đổi, có đăng bài viết “Nhân một câu văn của Hòa thượng Tinh Vân” của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến. Bài viết đã thu hút sự quan tâm của nhiều giới độc giả. Đặc biệt, trong những sự quan tâm đó, có bài viết của tác giả bản dịch tiếng Việt bài văn của Hòa thượng Tinh Vân. Nhận thấy, trong lãnh vực nghiên cứu, học thuật, hoạt động biện chính, trao đổi là việc cần làm; do đó Nguyệt san Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài phản biện của tác giả, người dịch bài văn của Hòa thượng Tinh Vân. NSGN
Đại sư Tinh Vân trao tặng bức “Hòa hình hạnh phúc” cho Tổng thống Mã Anh Cửu, Đài Loan 

Sau khi nhận được Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, ra tháng 3 năm 2012, lần đọc đến trang 68, tôi bất ngờ vì được đọc bài viết “Nhân một câu văn của Hòa thượng Tinh Vân” của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến. Khi đọc đầu đề, tôi không nghĩ đó lại là một bài phản biện với những võ đoán, suy luận thiếu căn cứ khoa học về thế giới Cực Lạc trong kinh A Di Đà mà Đại sư Tinh Vân “mượn bè” làm cơ sở để trình bày vấn đề kinh tế trong Phật giáo. Càng đi xa hơn, tác giả đã cực đoan (như chính tác giả đã tự nhận: “Với một chút cực đoan, tôi cho rằng cuộc sống thỏa mãn[1] về vật chất luôn là trở ngại lớn cho tu tập”[2]), mơ hồ võ đoán “trong đoạn văn” ấy của Đại sư “có hai điểm hầu như không ứng hợp với tinh thần Phật giáo chân chính”[3].
Để làm sáng rõ hơn vấn đề mà tác giả Huỳnh Ngọc Chiến tự cho là ứng hợp hay không ứng hợp với tinh thần Phật giáo chân chính, với tư cách là một người bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu về Phật học, tôi xin mạo muội trao đổi với tác giả mấy vấn đề sau đây:

  1. Chung quanh việc “biện chính” thế giới Cực Lạc trong kinh A Đi Đà
Định nghĩa như thế nào mới gọi là thế giới Cực Lạc chân chính, tôi nghĩ không cần thiết trong bài viết này, vì đã có quá nhiều bậc tu hành trình bày, và từ lâu đã trở thành kiến thức phổ thông trong tầm hiểu biết của giới nghiên cứu Phật học và giới tu hành; càng không cần thiết vì thế giới ấy rõ ràng “đối với những người còn muốn dùng ngôn ngữ để diễn đạt, trình chiếu về nó, tìm cách hiểu “bóng gió” hay suy tưởng về nó thì càng xa vời nó. Lẽ dĩ nhiên, không có một khái niệm nào có thể mô tả chính xác về thế giới ấy.

“Nói vậy mà không phải là vậy chăng?”- kiểu như công án của các vị Thiền sư ngày xưa. Nếu vậy thì thật khó cho những nhà làm nghiên cứu khoa học hiện tại, lại càng khó đem giáo lý của Đức Thế Tôn đến với quần chúng ngày nay. Đó là một trong những lý do mà nhiều vị thầy có kinh nghiệm trong giới tu hành, tiêu biểu là Thầy Nhất Hạnh đã có nhiều bài giảng, bài viết có xu hướng nghiêng về thế giới thực tại, khuyên con người cần tập trung sống sao cho vui, cho đẹp, cho có ích ngay tại bây giờ và ở đây.

Với chiều sâu hiểu biết cũng như sự trải nghiệm tâm linh, kinh qua gần một đời giáo hóa và những thành tựu của Đại sư[4], tôi tin rằng Đại sư Tinh Vân thừa hiểu những điều mà ngài đã nói. Có thể tác giả sẽ cho rằng tôi quá thần thánh hóa hay quá tôn sùng một nhân vật nào đó qua hình tướng bên ngoài hay các công trình nghiên cứu của họ. Với tôi, đánh giá vấn đề gì cũng cần có cơ sở, bằng chứng. Tất nhiên, những bằng chứng, cơ sở đó phải được giới chuyên môn thẩm định và phải được đặt trong một chỉnh thể. Khi chưa có cơ sở vững chắc, thì chớ vội hồ đồ cho rằng là một cao Tăng mà hiểu kinh “một cách thô thiển và trần trụi”[5], thậm chí còn cho rằng đó là một cách “hiểu sai lệch về giáo pháp Đại thừa”[6], không phù hợp với thời đại ngày nay.

Con người hiện đại, đa số “nói có sách mách có chứng” người ta mới tin, chứ nói kiểu thiền sư[7] như tác giả: “Trong cảnh giới đó… sỏi đá cũng đều là lưu ly thất bảo”[8], hay lý giải: “Qua ánh sáng tuệ giác, các quốc độ của chư Phật không còn là thế giới của bình thường nữa, mà trở nên cảnh giới siêu nhiên được trang nghiêm bằng thất bảo, qua trí tưởng tượng phong phú dị thường của các Bồ-tát viết kinh”[9], thì chúng thảo dân Phật tử làm sao có thể thấu lý mầu ấy? Thiền sư là Thiền sư. Ấy là chuyện của thế giới Thiền. Riêng tác giả, làm sao tác giả biết đấy là “cảnh giới siêu nhiên được trang nghiêm bằng thất bảo”? Tác giả đã thể ngộ rồi chăng? Tất nhiên, tôi không dám phủ nhận sự thể ngộ của tác giả về điều đó. Rõ ràng, có một điều tôi nghĩ rằng tác giả thừa biết pháp của Phật là “bất định pháp”, hay pháp được ví như chiếc bè qua sông, có khi lại ví von pháp như ngón tay chỉ mặt trăng. Có nhiều cách hiểu về những ví von đó, nhưng theo tôi, sau ngón tay ấy, chúng sanh như chúng ta thấy được điều gì mới là quan trọng nhất. Cũng vậy, vấn đề mà Đại sư dẫn dắt cho hàng Phật tử qua bài viết ngắn gọn, súc tích ấy là gì, rõ ràng là không dừng lại ở chỗ mô tả thế giới ấy có nhiều vàng bạc, châu báu, mà là một thông điệp rất thực tế, đó là khuyến khích hàng Phật tử có thể tu trong công việc, tu trong thời đại công nghiệp hóa, có thể làm giàu bằng nghề nghiệp chân chính[10]. Do đó, người sở hữu nhiều của cải dĩ nhiên không phải là tội lỗi, mà là phước báo kiếp trước - hiểu theo luật nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo. Vì kiếp trước vị ấy chuyên bố thí, làm việc thiện. Vậy, muốn bố thí của cải vật chất cho những người có hoàn cảnh khó khăn, những người gặp hoạn nạn, thiên tai thì của cải lấy từ đâu ra, nếu không cố gắng, siêng năng làm ăn? Nó chính là phương tiện giúp chúng ta làm được nhiều việc thiện. Cổ vũ, khuyến khích hàng Phật tử tích cực tham gia vào xã hội, làm ăn, buôn bán theo tinh thần Phật giáo, thay vì ru nhau ngủ bằng việc tu tập lấy kham khổ làm thanh cao mới là việc không ứng hợp với xu thế phát triển ngày nay! Đoạn kết của bài viết, Đại sư cũng không quên trình bày thêm rằng: Phật giáo không chỉ coi trọng của cải tiền bạc theo nghĩa hẹp, mà còn đặc biệt coi trọng của cải theo nghĩa rộng, ví dụ: Pháp Phật, niềm tin, từ bi, trí tuệ, sức khỏe, hoan hỷ, nhân duyên, tự tại, hổ thẹn, phát tâm, đạo đức, nhân cách, v.v… Những của cải vô hình này so với những của cải hữu hình càng tốt hơn[11].

  1. Đối tượng nghe pháp trong bài văn của Đại sư
Và một điều tác giả cần lưu ý, cái quan trọng nhất đối với thời thuyết pháp là đối tượng nào, trong bối cảnh nào. Tác giả hãy đọc cho hết một đoạn văn sau của Đại sư: Kinh tế là sự kết nối mạng mạch dân sinh, trước đây hành giả Phật giáo nguyên thủy mặc dù không coi trọng kinh tế, xem nhẹ của cải, chỉ chú trọng đến tịnh tu, tìm cầu cuộc sống đạm bạc giản dị, đề xướng tư tưởng thanh bần, cho rằng giản dị mới là tu hành, đạm bạc mới là hữu đạo; nhưng mà, nhìn từ góc độ kinh điển Phật giáo Đại thừa, ví dụ thế giới Cực lạc trong “Kinh A Di Đà”, vàng bạc, châu báu lát trên mặt đất, cung điện, lâu các đều làm từ thất bảo, vô cùng trang nghiêm, đường hoàng, Bồ-tát không vị nào không đeo mũ miện quý báu, chuỗi ngọc khoác mình, phú quý không gì sánh bằng. Vì vậy, tu học pháp Phật không nhất định phải lấy sự bần cùng, khốn khổ làm thanh cao. Phật giáo khích lệ tín chúng trong nhà có thể vinh hoa phú quý, có thể kiếm sống tích góp của cải, nhưng cần dành dụm hữu đạo, phải phù hợp với Chánh nghiệp và Chánh mạng trong Bát chánh đạo, như kinh A-hàm nói: “Những người làm nghề kiếm sống, hoặc làm ruộng, con buôn, hoặc chăn bò, nuôi dê có thể kiếm lãi, mở cửa hàng để mưu cầu lợi ích”. Chỉ cần chăm chỉ kiếm sống bằng những nghề nghiệp chân chính, thì cho dù là nông mục thu hoạch, hoặc là kinh doanh buôn bán, xí nghiệp thương mại, đầu tư sinh lợi, tất cả của cải thu được từ các nghề nghiệp ấy, đều được Phật giáo cho phép[12].
Rõ ràng đối tượng mà Đại sư thuyết pháp ở đây là hàng Phật tử tại gia, thông qua nội dung, một người có trình độ phổ thông về Phật học cũng hiểu ý đồ của bài viết là gì. Không quá sa đà đi giải thích thế giới ấy như tác giả tưởng. Vì thực chất những người cố gắng trình bày về nó, thì càng cách xa nó. Qua trích dẫn, Đại sư muốn cho ta thấy, trong kinh có đề cập đến thế giới ấy bằng những thứ quý giá nhất mà trần gian ai cũng mong mỏi kiếm tìm. Tác giả cho rằng hiểu thế giới ấy như thế thì là hóa ra “cõi Cực Lạc chẳng khác gì một đại siêu thị kim hoàn, và trang sức của các Bồ-tát quá đỗi lòe loẹt, hoa hòe!”[13]. Tôi thì không nghĩ như vậy, giả sử, nếu như thật sự có nhiều thứ quý giá như thế, thì vấn đề của nó không phải là vì nhiều mà trở nên “lòe loẹt” hay “hoa hòe”, mà vấn đề ở đây là sự sắp xếp, bố trí như thế nào cho hợp lý. Cứ xem các đại điện cung vua, tác giả sẽ thấy nó hoa hòe, lòe loẹt hay nó đẹp một cách trang nghiêm, lộng lẫy? Nói vậy, nhưng có lúc tác giả cũng thừa nhận: “Dĩ nhiên hình dung, sắc tướng sẽ được tôn vinh thêm nhờ vào hình thức”[14], hay “đành rằng cần phải có các tự viện to lớn hoành tráng để hỗ trợ việc hoằng dương Chánh pháp” [15].

Trong khoa học, nói thì phải có dữ liệu, cơ sở. Nếu tác giả tin kinh điển, cổ tịch là cơ sở, là thật, là lịch sử được ghi chép lại, thì khi trình bày, tác giả cứ lấy nó ra làm dẫn chứng để làm rõ thêm vấn đề của tác giả đang bàn. Muốn hiểu nghĩa bóng, trước tiên cần hiểu nghĩa đen. Chọn một câu mà không xem xét hoàn cảnh, đối tượng nghe pháp để sa đà “biện chính” là cách làm thiếu thận trọng, thiếu khoa học. Không ai trích một câu trong chỉnh thể của một đoạn văn để phân tích, phản biện. Đó là cái làm không hoàn chỉnh, phiến diện và sai lệch. Nó giống như một vài trường hợp không hiểu nhiều về Phật, chỉ biết một vài câu như “đời là bể khổ”, rồi vội cho rằng Phật giáo là yếm thế hay bi quan. Trong khoa học hiện đại, không ai “nghiên cứu” kiểu như thế. Và hẳn nhiên, giới học thuật nghiêm túc cũng chẳng mấy ai đi lấy một câu để viết thành một bài nghiên cứu mang tính phản biện như tác giả. Tôi rất tâm đắc câu đúc kết của Đại sư sau khi dẫn chứng các trường hợp mới xem sơ qua như là tà pháp nhưng lại là Chánh pháp, Đại sư viết: “Phật pháp có lúc không phải là Phật pháp, không phải là Phật pháp có lúc lại là Phật pháp”[16].

  1. “Tu học pháp của Phật không nhất định phải lấy sự bần cùng khốn khổ làm thanh cao”

Tu học pháp của Phật, rõ ràng là “không nhất định phải lấy sự bần cùng khốn khổ làm thanh cao”. Anh muốn tu, thì trước hết cần phải học. Vì “tu mà không học là tu mù”. Như vậy, bàn đến việc tu học thì đồng thời cũng liên quan đến vấn đề giáo dục. Vì anh tu là không chỉ tu cho bản thân, mà còn tu cho người, “tu” cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Anh muốn tu cho người, cho xã hội, thì buộc anh phải học cách (phương pháp) giáo dục tha nhân thành người tốt, có tâm, có tầm. Mà muốn giáo dục một con người phù hợp với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, thì người tu cần tiếp cận với các nền giáo dục tiên tiến, do đó cũng cần có đầy đủ các phương tiện, thiết bị tiên tiến để dễ bề hội nhập, học hỏi và truyền đạt, truyền bá Phật pháp thông qua Internet,... Muốn có các phương tiện tiên tiến, anh phải có tiền của để mua thiết bị, nếu không anh sẽ bị lạc hậu. Hơn nữa, câu nói trên của Đại sư không mang tính khẳng định triệt để, mà chỉ dùng từ “không nhất định” (不一定). Vậy thì, những ai muốn tu theo kiểu lấy bần cùng làm thanh cao, thì vẫn không có vấn đề gì. Câu nói quá rõ ràng vậy, sao tác giả lại cho rằng nó có vấn đề, hay chính tác giả đang có vấn đề?

Rõ ràng Đại sư nói “không nhất định phải lấy sự bần cùng, khốn khổ”, ngài không hề đề cập đến vấn đề “thỏa mãn về vật chất”[17] như tác giả cố đưa thêm vào, càng không đề cập gì đến việc ăn chay hay ăn mặn, hoặc ăn chay phải là ăn cho sang trọng, xa xỉ, cho nên tác giả đã thừa khi rút ra kết luận: “Tôi tin rằng, chỉ có những vị giữ nếp thanh tu mới có được đời sống tinh thần thật sự. Bởi vậy trong Phật giáo, vĩnh viễn cần phải gìn giữ nếp sinh hoạt quả dục, thanh bần dù tu tập trong bất kỳ môi trường nào”[18], và rồi lan man luận điểm thứ hai kia. Bài viết của Đại sư đang bàn về vấn đề kinh tế trong Phật giáo, và khuyến khích Phật tử ra sức, chăm chỉ kiếm gạo, kiếm cơm nuôi dưỡng gia đình một cách đầy đủ theo tinh thần trong Bát chánh đạo. Cớ sao tác giả lại nhìn lệch về một hướng vậy? Tôi, một người sơ cơ tìm hiểu Phật học, vẫn không thấy đó là cái hiểu “lệch lạc” của Đại sư; mà trái lại, từ những bài viết ngắn gọn của Đại sư, cho tôi một cách nhìn mới mẻ về Phật giáo. Một Phật giáo năng động, phù hợp với mọi xã hội, mọi thời đại - chí ít là đến thế kỷ này.

Liên quan đến vấn đề bần cùng, trong tác phẩm “Xây dựng luân lý toàn cầu” của Pháp sư Thánh Nghiêm, có đoạn viết: “Chúng ta nên lý giải rằng: bần cùng và ngu muội luôn liên quan với nhau. Do vì bần cùng cho nên không có năng lực tiếp cận những thông tin giáo dục hiện đại hóa, đa nguyên hóa và toàn cầu hóa, vì vậy tạo ra sự khép mình trong tư tưởng văn hóa, rồi kỳ thị, nụy (thấp) hóa, bài xích tất cả những quan điểm khác biệt với quan điểm của mình; do vì bần cùng, cho nên đố kỵ với các nước thuộc chủ nghĩa tư bản, mà lấy nước Mỹ làm đầu, ý thức tự ti thường chuyển thành thái độ kiêu mạn cực độ, do vậy mà nhìn hằn thù, khinh thường, công kích tất cả những ai đối lập”[19].

Nói một cách ngắn gọn, câu nói trên đây của Đại sư Tinh Vân là câu nói mà tôi cho rằng không có gì đáng bàn cãi, vì nó quá rõ ràng trong thời đại ngày nay; hơn nữa, đó là cách nhìn của ông về vấn đề tu tập trong thời hiện đại. Tu, có “tám vạn bốn ngàn pháp môn tu”. Mục đích không ngoài tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân và cho toàn xã hội.

  1. Liên quan về vấn đề học thuật
Như ở mục 1 tôi có đề cập, trong nguyên tắc trích dẫn, không nên trích một vài câu trong một đoạn chỉnh thể, đặc biệt khi phản biện cho rằng đó là vấn đề không đúng hoặc không phù hợp. Vì, khi bạn trích dẫn như thế, tự nó đã biến thành một nghĩa khác ngoài chủ ý mà tác giả bài viết muốn đề cập, đó là nguyên tắc thứ nhất. Tất nhiên, bạn sẽ phản vấn tôi, nếu cơ sở không vững chắc, hiểu sai, thì những lý giải tiếp theo sẽ không đứng vững. Nếu tác giả Huỳnh Ngọc Chiến đặt vấn đề đó với tôi, tôi xin tác giả tìm hiểu thêm về cách phát ngôn của các Tổ sư. Nguyên tắc thứ hai, khi tác giả phản biện cho đó là cách hiểu sai trái hoặc không phù hợp, thì tác giả phải đưa ra đủ các cơ sở để khẳng định ý kiến của mình, tránh cách nói lấp lửng bằng những phó từ mang tính ước chừng, không triệt để, cụ thể như từ “hầu như” trong câu “… hầu như không ứng hợp với tinh thần Phật giáo chân chính”[20], hay những võ đoán “ngẫm cho cùng, cách mô tả sắc tướng đó chỉ là biện pháp tu từ, mang tính ẩn dụ và ước lệ để diễn đạt cái ý ở ngoài lời”[21], “… có lẽ cũng chỉ là cái bồ đoàn đơn sơ bằng cỏ bện,…”[22], “Các Bồ-tát khi viết kinh hẳn đã nhập định trong cảnh giới thù thắng vi diệu”[23]. Cách dùng phó từ và võ đoán trên cho thấy tác giả vẫn chưa chắc chắn câu nói của Đại sư là sai hoàn toàn. Đã không chắc chắn thì khoan vội “biện chính” vấn đề. Bài viết chủ yếu là phản biện nội dung hai câu nói của Đại sư, nhưng đã sử dụng quá nhiều võ đoán.

Ngoài ra, khi đề cập về khuôn mặt của Đức Phật, cho rằng khuôn mặt ấy là do “vay mượn gương mặt thần Appolon trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp”[24], thì tài liệu mà tác giả trích dịch tôi không biết là có tính xác thực và độ tin cậy bao nhiêu. Trong giới Phật giáo, có bao nhiêu phần trăm công nhận quan điểm của ông Will Durant như tác giả đã trích dẫn? Trong phần chú thích (3) của tác giả, tôi không hiểu tại sao lại không có chú thích thêm phần tiếng Hán, trong khi đó chú thích (7) thì lại có thêm phần chữ Hán? Thêm vào đó, một số chú thích tác giả có ghi Tên tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản, năm xuất bản, số trang, nhưng có một số chú thích lại không có. Tính học thuật của bài viết do đó cũng mất đi tính nghiêm túc.



Tóm lại, bài viết của Đại sư Tinh Vân tuy ngắn gọn nhưng đã mang một thông điệp đến cho các Phật tử một tinh thần vươn lên, phấn đấu làm ăn, cải thiện đời sống bằng nghề nghiệp chân chính của mình; kích thích, cổ vũ hàng Phật tử tham gia vào các hoạt động xã hội và thế giới. Bài viết cụ thể, thiết thực, góp phần xây dựng xã hội ngày một văn minh hiện đại hơn, hoàn toàn không có vấn đề gì cần “phản chính”. Các bài viết ngắn như thế của Đại sư, đã có tầm ảnh hưởng tích cực sâu rộng, và những bài viết tương tự như vậy đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của đại chúng, thế hệ trẻ chúng tôi, và cũng như đã được sự công nhận của các nhà xuất bản Mỹ[25]. 
Bài “Quan điểm của Phật giáo về kinh tế” của Đại sư Tinh Vân là cách tiếp cận và cách nhìn nhận của Đại sư thông qua kinh điển Đại thừa. Tôi cho rằng nó không có vấn đề gì cần bàn cãi, và phù hợp với cách nhìn cách tu ngày nay. Trên đây là những trao đổi của tôi về bài phản biện của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến cũng như cách nhìn của tôi về bài viết của Đại sư. Rất mong sự chỉ giáo.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ, số 193, tháng 4 năm 2012

[1] Toàn bài viết của Đại sư Tinh Vân không hề đề cập vấn đề thỏa mãn về vật chất của một vị tu hành chân chính, đây là luận điểm đã đi quá xa vấn đề cần bàn cãi. Cũng nên nói thêm, khi tác giả tự nhận mình “cực đoan” nhưng vẫn liều lĩnh phát biểu quan điểm ấy, thì tác giả đã xa rời giáo lý Trung đạo của Phật giáo.
[2] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 74.
[3] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 69.
[4] Xem tại: http://zh.wikipedia.org/wiki/%E9%87%8B%E6%98%9F%E9%9B%B2 hoặc có thể tìm hiểu thông qua internet bằng cách gõ các từ khóa bằng tiếng Việt Đại sư/Hòa thượng Tinh Vân, hay gõ từ khóa bằng tiếng Trung 星雲大師 bạn sẽ thấy cuộc đời và sự nghiệp của Đại sư. Trong nhiều tác phẩm, gần đây có tác phẩm “Thảo luận vấn đề Phật giáo đương đại” được giải thưởng tại Mỹ ( http://giacngo.vn/phatgiaonuocngoai/2011/06/12/52F008/ )
[5] Ngữ khí phản vấn của tác giả trong trường hợp này, đồng nghĩa với sự khẳng định. Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 69.
[6] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 69.
[7] “Đạo vốn không nhan sắc/Mà ngày càng gấm hoa/Trong ba ngàn cõi ấy/ Đâu chẳng phải là nhà”. (Xem Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB. Văn học Hà Nội, trang 245).
[8] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 73.
[9] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 71.
[10] Hòa thượng Tinh Vân - Phước Tâm dịch:“Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế”, in trong Nguyệt san Giác Ngộ, số 189, tháng 1 năm 2012, trang 36.
[11] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 189, tháng 1 năm 2012, trang 39.
[12] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 189, tháng 1 năm 2012, trang 36.
[13] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 69.
[14] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 70.
[15] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 74.
[16] Hòa thượng Tinh Vân - Phước Tâm dịch:“Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo”, in trong Nguyệt san Giác Ngộ, số 185 - Số đặc biệt, tháng 8 năm 2011, trang 72.
[17] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 74.
[18] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 75.
[19] Pháp sư Thánh Nghiêm (2011), Xây dựng luân lý toàn cầu (建立全球倫理), Trung tâm Văn hóa Pháp Cổ Sơn Đài Loan xuất bản, trang 20-21.
[20] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 69.
[21] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 70.
[22] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 71.
[23] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 71.
[24] Xem Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, tháng 3 năm 2012, trang 70.
0 comments
 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. Một chút cho đời - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger