Từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú và phức
tạp. Cuộc giao tiếp sẽ trở nên tốt đẹp nếu chúng ta tuân thủ các yêu cầu của
chuẩn mực giao tiếp như lịch sự, lễ phép, đúng mực, đúng vai giao tiếp, đúng
hoàn cảnh và tuân theo những ước định, chế định của xã hội và có tính khuôn mẫu
trong văn hóa người Việt. Bài viết này bàn về từ ngữ xưng hô theo chuẩn mực của
giao tiếp lịch sự trong 5 môi trường giao tiếp khác nhau: trong nhà trường;
trong nhà chùa; trong gia đình; trên các phương tiện thông tin đại chúng; trong
công sở, cơ quan tiếp dân, bệnh viện…
Số lượng từ xưng hô của Tiếng Việt so với tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc… quả là phong phú và tinh tế, phức tạp hơn rất nhiều.
Nhưng sử dụng nó thế nào để thể hiện là người có văn hóa giao tiếp lại không hề
đơn giản. Văn hóa giao tiếp được thể hiện trong việc sử dụng từ xưng hô lịch sự,
đúng vai giao tiếp, lễ phép, đúng mực, khéo léo, khiêm nhường, đúng hoàn cảnh
nói năng, đúng mối quan hệ thân – sơ giữa người nói và người đối thoại. Từ ngữ
xưng hô phụ thuộc vào vai giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp. Một người có thể sắm
nhiều vai trong những hoàn cảnh khác nhau.
Xưng hô lịch sự trước hết là phải lễ phép. Xưng
hô lễ phép thể hiện sự tôn kính những người có tuổi tác cao, những người có vị
thế lớn, những người có uy tín trong mối quan hệ tương giao với người nói… như
các bậc cao niên, cha mẹ, thủ trưởng… Xưng hô lễ phép có chừng mực sẽ tạo được
tính lịch sự tôn trọng trong giao tiếp.
Xưng hô lịch sự còn biểu hiện ở tính đúng mực,
là cách xưng hô hợp chuẩn, tuân theo những ước định hoặc chế định của xã hội và
có tính khuôn mẫu trong tiếng Việt. Chẳng hạn, người giáo viên phổ thông thường
tự xưng là thầy (cô) gọi học sinh là em; mẹ tự xưng là mẹ
và gọi con của mình là con; em của bố được gọi là chú; em của mẹ được gọi
là cậu và hình thành nên các cặp xưng hô cậu - cháu, chú - cháu
dù rằng cậu và chú có ít tuổi hơn cháu v.v.. Vợ và chồng là người bình quyền
nhau, nhưng nếu xưng hô theo kiểu bạn bè, mày - tao, tớ - cậu, mình - bạn
hoặc vợ xưng hô với chồng là chị và gọi chồng bằng em (mặc dù vợ
nhiều tuổi hơn) thì thường được coi là không đúng mực (vi phạm chuẩn mực của
xưng hô). Xưng hô đúng mực là cách thức xưng hô nhằm tạo ra tình thân hữu, rút
ngắn khoảng cách giữa người nói và người nghe. Giữa hai người vốn chưa quen biết,
phải xưng hô theo chuẩn của lễ phép, nếu có cơ hội chuyển sang xưng hô theo chuẩn
của đúng mực thì có thể chuyển đổi sang kiểu quan hệ quen biết và gần gũi mà
lúc ban đầu chưa thể có được. Xưng hô đúng mực trong giao tiếp tạo nên được
tính lịch sự thân thiện.
Phương châm trong xưng hô lịch sự là luôn hướng tới
“xưng khiêm hô tôn”. Xưng hô khiêm nhường là nét đẹp trong văn hóa giao tiếp của
người Việt chúng ta. Xưng hô không khiêm nhường dễ bị đánh giá là thiếu lễ độ,
làm mất đi thiện cảm từ phía người đối thoại. Tuy nhiên quá chú ý đến khiêm nhường
cũng có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả trong tương tác xã hội. Cho nên xưng
hô khiêm nhường cũng cần phải có chừng mực mới đạt được hiệu quả mong muốn
trong tương tác.
Sau đây, chúng tôi sẽ điểm qua một số mối quan hệ giao
tiếp, để từ đó bàn về chuẩn mực của từ xưng hô trong những hoàn cảnh giao tiếp,
những quan hệ liên nhân khác nhau.
1. Xưng hô thầy – trò
Xưng hô trong nhà trường phản ánh nghĩa vụ trách nhiệm
giữa thầy và trò, phải thể hiện vị thế xã hội, tính tôn ty gắn liền với chữ Lễ
và phải thể hiện tình cảm.
Ở bậc học mầm non, giáo dục Việt Nam có cách xưng hô
duy nhất, không khác biệt giữa hai miền Nam Bắc, đó là cô và các con.
Cách xưng hô này xuất phát từ một trách nhiệm nữa ngoài trách nhiệm giảng dạy của
cô giáo, là trách nhiệm của người mẹ. Giáo viên Mầm non đến trường ngoài việc dạy
cho trẻ những kiến thức tổng hợp còn phải chăm sóc các cháu như ăn, uống, tắm,
giặt… và theo dõi về tình trạng sức khỏe của các cháu để thông báo cho phụ
huynh. Cô giáo làm trách nhiệm của người mẹ, người bà của các cháu nên cô giáo phải xem các cháu như con, cháu của
mình. Cái tình cảm lớn lao ấy xuất phát từ trách nhiệm, từ công việc nên cách
xưng hô cô – các con cũng nảy sinh từ đó.
Thầy trò trong nhà trường Việt Nam xưng hô theo nguyên
tắc xưng khiêm hô tôn, gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp
thì tôn kính và đặc biệt gắn liền với chữ LỄ. Tính tôn ti đã được thể hiện qua
xưng hô giữa thầy với trò. Nó thể hiện sự hiểu biết của chủ thể về văn hóa dân
tộc, văn hóa giao tiếp mà ông cha ta đã hàng ngàn năm dày công vun đắp, xây dựng.
Xưng thầy (cô) và các em là cách xưng hô phổ biến nhất trong nhà
trường Việt Nam ta từ cấp tiểu học đến cấp trung học. Cách xưng hô này biểu hiện
mối quan hệ giữa thế hệ đi trước, người đang gánh trách nhiệm hướng dẫn, giảng
dạy chỉ bảo, đào tạo… với thế hệ sau. Chính vì vậy mà ngôn ngữ tiếng Việt có những
cụm từ “đàn em thân yêu, thế hệ sau, thế hệ học trò…”. Dùng cặp đại từ nhân
xưng thầy (cô) - em, người dạy đã thể hiện được vai trò trách nhiệm của mình là
truyền thụ tri thức, giáo dục, hình thành nhân cách cho học sinh.
Giảng viên xưng tôi – các bạn, các anh chị; hoặc
là các thầy cô (nếu họ là giáo viên), xưng tôi với các thầy (nếu
họ là những tăng – ni sinh ở Học viện Phật giáo) là cách xưng hô phổ biến ở nhà
trường chuyên nghiệp. Lí giải cho cách xưng hô này là trong suy nghĩ của người
thầy ở nhà trường chuyên nghiệp, học trò (sinh viên chính qui, tại chức, học
viên cao học, nghiên cứu sinh) là những thế hệ đồng nghiệp tương lai, là đội
ngũ kế thừa, kế cận, tiếp bước họ trên con đường sự nghiệp mà họ đang đi. Một
lý do quan trọng là cái biên độ về sự chênh lệch tuổi tác giữa thầy và trò ở
trường chuyên nghiệp rất rộng, có độ lệch như cha và con, có độ lệch như anh
(chị) và em, có nhiều trường hợp thầy và trò cùng lứa tuổi hoặc thầy trẻ hơn
trò vài tuổi. Một điều nữa, sinh viên ở trường đại học là chủ thể nghiên cứu
nên cách dùng đại từ các bạn hay anh chị sẽ làm cho thầy trò gần
gũi hơn, phát huy được tính chủ động của người học, dễ dàng tiếp cận với khoa học,
cách xưng gọi đó cũng thể hiện được sự tôn trọng học trò của thầy, theo phương
châm xưng khiêm hô tôn, một trong những chuẩn mực của văn hóa giao tiếp. Người
học dù nhiều tuổi nhưng cũng không thể gọi người dạy là em hay cháu
như gặp gỡ ngoài đời được. Bởi vì, giáo dục Việt Nam luôn gắn với chữ lễ,
chữ lễ trong mỗi người thể hiện sự nhận biết về vị thế của mình với vị
thế của người đối diện. Họ phải biết thay đổi vai giao tiếp trong những hoàn cảnh
giao tiếp khác nhau. Có sinh viên tại chức nghĩ mình có chức vụ lại nhiều tuổi
gọi thầy cô nhưng lại xưng tôi. Cách xưng hô đó nghe chừng cũng
gây những phản cảm nhất định. Tuy nhiên, nếu một sinh viên nam hệ tại chức đã
có vợ con nhưng lại xưng con với cô giáo chỉ hơn mình chục tuổi thì cũng
khiến cô giáo ngượng ngập. Xưng là con chỉ phù hợp với học sinh mẫu giáo
và tiểu học mà thôi. Lại có trường hợp sinh viên tại chức ít tuổi hơn thầy cô rất
nhiều nhưng lại xưng tên riêng khi nói chuyện với thầy cô, chẳng hạn người ấy
(tên là Lan) nói: Cô cho Lan nghỉ học buổi này nhé! (trong khi người ấy
không phải là một ngôi sao nổi tiếng hay là một yếu nhân) thì theo chuẩn mực
truyền thống, cách xưng hô như vậy cũng không nên.
Hiện nay có một số giảng viên sử dụng từ xưng hô tao
– mày hoặc ông – tôi với người học. Cách xưng hô này cũng vi phạm
chuẩn mực. Bởi lẽ, xưng hô tao – mày có thể bộc lộ sự thân thiện, gần
gũi, cởi mở nhưng lại thiếu trang trọng, lịch thiệp, một biểu hiện trong nét đẹp
văn hóa của người Việt. Có nên xưng hô ông - tôi khi tiếp xúc trao đổi với
sinh viên, học viên không? Cặp đại từ này chỉ dùng cho những người ngang hàng
hoặc ở những người bạn thân thiết, trọng nhau. Đặc trưng văn hóa của người Việt
là xưng khiêm hô tôn, việc sử dụng đại từ này vừa không thể hiện đặc trưng đó, vừa làm cho người
đối diện quên đi vị thế bản thân, vừa tạo
những suy nghĩ thiếu nghiêm túc của những
người xung quanh về quan hệ giữa người dạy và người học (như vấn đề thiếu công
tâm trong dạy học). Ông - tôi trong mối quan hệ bạn bè thể hiện tình cảm
gần gũi, thân thiết nhưng dùng cặp đại từ này trong mối quan hệ thầy trò sẽ biểu
hiện sắc thái suồng sã của thầy trước
trò.
Có một số ý kiến cho rằng nên khuyến khích sinh viên
xưng tôi với giảng viên. Thậm chí có cả một trường đại học mở tọa đàm để
khuyến khích cách xưng hô này. Họ cho rằng sinh viên xưng tôi sẽ giúp giải
phóng năng lực, tự tin và chủ động hơn trong giao tiếp. Cách nghĩ như thế không
mấy thuyết phục bởi lẽ trong thực tế, nhiều sinh viên không cần dùng đến cách
xưng hô này mà vẫn tự tin khẳng định mình. Tính tự tin phải thể hiện ở bản
lĩnh, sự hiểu biết, kiến thức của mình mà mình muốn tranh luận, muốn thực hiện
trước mọi người. Không phải cứ xưng tôi với giáo viên là sinh viên sẽ là
người trưởng thành. Vấn đề giáo dục Việt Nam không phải ở việc xưng hô. Nhìn rộng
ra các nước châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, sinh viên của họ cúi gập
người chào thầy vô cùng trân trọng nhưng họ vẫn phát triển hơn nước ta. Khi
thuyết trình hoặc hội thảo khoa học thì sinh viên xưng tôi là đúng. Còn khi
trao đổi trực tiếp với thầy cô mang quan hệ thầy trò thì phải xưng hô chuẩn mực
như từ trước đến nay. Nếu không nhiều người lầm tưởng đó không phải là môi trường
giáo dục mà là công sở. Việt Nam có truyền thống “tôn sư trọng đạo” và cách
sinh viên xưng em gọi thầy/ cô thể hiện truyền thống đó.
Tiếng Việt rất phong phú, không nên tây hóa mà đánh mất truyền thống quí báu.
Có người nói rằng mình không câu nệ việc xưng hô của
sinh viên nhưng vẫn “sốc” khi nhận được e- mail với lời chào kiểu như: “Hi, cô
Vân” hoặc khi gửi e – mail trao đổi bài với sinh viên này và đều nhận được câu
trả lời rất gọn và rất tây là “OK”. Khó có thể gọi là có văn hóa khi học trò
kém thầy cô cả về tuổi đời và trình độ học vấn lại buông một câu “được” hoặc
“OK” như thế.
Xưng hô trong quan hệ thầy trò trong tiếng Việt độc
đáo và hiếm thứ tiếng nào có nổi. Ngày xưa thì thầy - con, ngày nay thì thầy
- em. Xưng em với thầy dù khoảng cách tuổi tác của thầy tương đương
ông ngoại với cháu nhưng không hề thất lễ mà còn có ý tôn kính, vừa thương yêu,
vừa gần gũi. Có một phụ nữ dẫn con đến trường, khi gặp thầy của con mình, người
mẹ nói: “Thưa thầy, thầy còn nhớ em không?” thì cậu con lớp 12 cũng nói: “Thì
ra thầy cũng dạy cả mẹ em nữa ạ”. Hai mẹ con cùng chung một kiểu xưng hô đặc
trưng cho môi trường sư phạm, mới thấy tiếng Việt của chúng ta độc đáo như thế
nào.
2. Xưng hô vợ - chồng
Trong tiếng Anh chỉ dùng I, you và me để
xưng hô, dù là người lạ, người quen, gia đình, vợ chồng, con cái. Nhưng trong
tiếng Việt thì riêng xưng hô giữa vợ chồng đã vô cùng phong phú. Nó thể hiện nếp
văn hóa tình cảm, sự hòa hợp trong đời sống hôn nhân và sắc thái tình cảm như:
yêu thương, giận dữ, xung đột, bất hòa…
Từ ngữ xưng hô vợ chồng còn phản ánh nhiều mặt đời sống
giao tiếp trong gia đình: độ tuổi, tính cách, thời đại, tính chất địa phương,
khu biệt vùng miền, thành thị với nông thôn, vợ chồng trẻ với vợ chồng già…Tất
cả làm nên bức tranh sinh động, uyển chuyển phong phú đặc trưng cho gia đình
người Việt
Vợ chồng khi chưa có con có thể gọi nhau là anh ơi,
em ơi, mình ơi, thậm chí là ai ơi. Vợ gọi yêu chồng về ăn cơm: Ai
ơi về ăn cơm. Chồng hỏi yêu: Cơm ai nấu, vợ trả lời: ai nấu chớ
ai.
Khi xung đột, bất hòa, cãi nhau, cách xưng hô giữa vợ
chồng không còn ngọt ngào như trước nữa, từ ngữ xưng hô giữa vợ chồng đã thay đổi:
Tôi nói cho cô rõ; Tao nói cho mẹ mày biết; Thằng này sẽ; Ông mày chẳng kém
mẹ mày; Đây sẽ cho mẹ mày biết tay; v.v... hoặc: Tôi nói cho anh rõ; Ta nói cho
bố mày biết; Đây cũng chẳng thua kém bố mày; Bà mày cũng chẳng chịu thua; Mày
giỏi thì đi kiếm con khác về cho nó hầu…
Những sự xưng hô không chuẩn mực đó tất yếu đều dẫn đến
mất mát đổ vỡ. Trong thực tế cuộc sống đã có những chuyện như sau: Có một người
khách hỏng xe đã dừng lại một quán sửa xe để chữa. Ông chủ quán gọi với vào
nhà: Mít ơi, mày làm gì mà chết dấp trong đấy lâu thế hử? Người khách tưởng
anh ta nói với con, ai ngờ chạy ra lại là vợ - một phụ nữ thuộc loại mỏng mày
hay hạt. Lúc vắng mặt người phụ nữ này, người khách góp ý: Ông không nên gọi
vợ như vậy. Anh ta bảo: Quen rồi, với lại nó kém mình đến mười lăm tuổi,
không bằng tuổi con em út. Một thời gian sau, người khách quay lại thấy anh
ta ngồi sửa xe một mình mà không thấy cô vợ đâu. Thì ra cô vợ đã bỏ anh ta để
đi theo một người đàn ông miền Tây. Người khách nghĩ thầm có lẽ người phụ nữ
này không thể chịu đựng mãi với cách xưng hô mày tao của anh chồng này
lâu hơn nữa nên đã thèm tiếng em ngọt ngào của người đàn ông nọ. Lại
cũng có chuyện chị vợ cãi nhau với chồng, lần đầu tiên nghe thấy chồng xưng mày
– tao, ngạc nhiên quá đã ngất xỉu, chồng bị một phen hú hồn. Còn có chuyện
hài hước ở tòa án xử một vụ li hôn như sau, khi quan tòa hỏi: Tại sao anh
đánh cô ấy? thì người chồng đã trả lời: Tại vì lúc ấy cô ta không phải
là vợ tôi, cô ta xưng với tôi là … bà.
Rất nhiều gia đình Việt kiều bật mí rằng: vợ chồng họ
khi cãi nhau nhỏ thì dùng tiếng Việt nhưng khi xung đột lớn thì chuyển sang
dùng tiếng Anh. Có lẽ mục đích của họ là tránh những từ xưng hô ảnh hưởng tai hại
đến đời sống hôn nhân. Có người quan niệm rằng xưng hô thế nào không quan trọng
miễn là sống với nhau tử tế, có thủy chung, có trách nhiệm với gia đình là được.
Thực ra đó là một quan niệm sai lầm. Bởi vì các cung bậc tình cảm thể hiện rất
rõ trong từ ngữ xưng hô. Một anh chàng dù cục cằn thô thiển đến mấy thì chắc chắn
cũng sẽ không dùng câu sau để tỏ tình: Tao yêu mày, mày có yêu tao không? (nếu đó không phải là bạn bè đùa nhau). Xưng
hô khiếm nhã thể hiện sự thiếu văn hóa trong gia đình, ảnh hưởng xấu đến nhân
cách con cái.
Nhà tâm lí người Mỹ Dale Carnegie đã từng khuyên: “Muốn
xây dựng hạnh phúc gia đình, vợ chồng phải tôn trọng nhau như khách quý”. Những
ngôn từ thiếu lịch sự trong cách xưng hô sẽ làm tình yêu phai nhạt. Xưng hô giữa
vợ chồng có vai trò đặc biệt trong việc gìn giữ hạnh phúc. Xưng hô cũng có thể
làm cho mâu thuẫn được giải tỏa và cũng có thể làm giãn cách quan hệ vợ chồng
nhất là vào thời điểm “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Những lúc ấy một tiếng
xưng anh của chồng với vợ hay một tiếng xưng em của vợ với chồng
sẽ giúp cho “lòng ta dịu lại”, khoảng cách như được xóa tan.
Người Việt Nam có vô vàn cách xưng hô giữa vợ chồng,
hiếm có nơi nào trên thế giới có nhiều cách xưng hô ứng xử giữa vợ chồng phong
phú và đa dạng như vậy. Chúng ta cần tự hào và gìn giữ những cách xưng hô đẹp,
đồng thời cũng lên án những cách xưng hô thiếu văn hóa, thiếu lịch sự, khiếm
nhã trong ứng xử gia đình.
3. Xưng hô nơi công sở, cơ quan tiếp dân, bệnh viện…
Nếu như trước đây ngôn ngữ của giới công chức Việt Nam
chỉ quanh quẩn trong vài ba từ thủ trưởng, cán bộ, đồng chí thì nay với
sự phát triển của xã hội và sự giao thoa về ngôn ngữ, có thể nói thế giới ngôn
ngữ văn phòng phong phú hơn bao giờ hết. Nhiều luồng ngôn ngữ thâm nhập vào thế
giới công sở mang theo cả ưu và nhược tạo nên một thế giới giao tiếp nhiều mầu
sắc.
Họ có thể xưng
hô tây ta lẫn lộn. Những người sính ngoại thì thích dùng “ai - ju”, “moa -
toa”, ủa - nỉ”.
Ngôn ngữ gia đình cũng lên ngôi nơi công sở. Họ gọi
nhau bằng những từ xưng hô mẹ - con, u – con, chồng - vợ. Chẳng hạn: U ơi,
cho con tạm ứng ít tiền; Vợ ơi, đi ăn trưa với chồng đi. Cách xưng
hô này tuy tạo được môi trường giao tiếp thân thiện ấm áp nhưng gần đây một số
công ty Việt lạm dụng ngôn ngữ gia đình, xưng hô suồng sã không đúng nơi đúng
lúc làm mất đi vẻ đẹp nơi công sở. Các công ty chuyên nghiệp và các công ty nước
ngoài rất phản cảm với kiểu giao tiếp thân tộc này.
Ngoài những cách xưng hô trên họ còn gọi nhau bằng biệt
danh nick name. Cách gọi này có thể làm cho quan hệ đồng nghiệp trở nên thân
thiết, cuộc nói chuyện trở nên vui vẻ, cởi mở nhưng sử dụng chúng quá vô tư, đặc
biệt với những biệt danh quá “độc” như : “K.khùng”, “H. già”, “M.đểu”, “Đức dê”
sẽ khiến người nghe phản cảm và làm cho
người đối diện mất đi chút thiện cảm với mình trong giao tiếp. Nhân viên công sở
nên tránh làm mất sự tự tin và thể diện cho đồng nghiệp nếu sử dụng nick name.
Có ý kiến cho rằng ở công sở nên xưng hô theo chức
danh đối với người có chức vụ, xưng hô bằng tên với người cùng trang lứa. Không
nên xưng hô theo kiểu gia đình. Đối với người lớn tuổi thì dùng đại từ ông/ bà
và xưng tôi. Tuy nhiên cũng lại có ý kiến: xưng tôi chỉ nên thể hiện trên văn bản,
giấy tờ hoặc khi đại diện cho một tổ chức, hoặc hội họp hay nói trước số đông
những người nhiều lứa tuổi. Một người
lãnh đạo còn trẻ nhưng phân công công việc đâu ra đấy, họ đâu có nhất thiết phải
xưng tôi với người nhiều tuổi dưới quyền. Lẽ dĩ nhiên người cấp dưới dù
nhiều tuổi hơn thủ trưởng cũng không thể suồng sã gọi “sếp” là mày hay chú
em được. Trong trường hợp này nhân viên lớn tuổi có thể xưng tôi và
gọi thủ trưởng bằng tên. Văn hóa xã hội nơi công sở vẫn nên theo truyền thống
như tôn trọng tuổi tác, thâm niên, chức vụ mà có cách xưng hô cho lễ phép và lịch
sự. Con người thời đại mới phải biết rõ đâu là lúc cần khẳng định cái tôi, đâu
là lúc phải biết kính trên nhường dưới. Cách xưng hô dễ nghe là cách xưng hô
phù hợp (đúng hoàn cảnh, đúng đối tượng, đúng vị thế và phải tôn trọng người
nghe). Xưng hô phải “tùy cơ ứng biến” nhằm đảm bảo tính văn hóa, đúng mực trong
giao tiếp theo phong cách người Việt.
Bên cạnh xưng hô nơi công sở thì việc xưng hô nơi tiếp
dân, giao dịch công việc hoặc bệnh viện… cũng cần phải tuân thủ triệt để nguyên
tắc của văn hóa giao tiếp là lễ phép, lịch sự, đúng mực, nghiêm túc. Những trường
hợp được dẫn ra sau đây đều vi phạm chuẩn mực của văn hóa giao tiếp.
Chẳng hạn có một anh cán bộ than phiền rằng: “Tôi
đang công tác tại một trường đại học ở thành phố, được cử đi nghiên cứu sinh
khoa học ở một trường đại học tại một nước châu Á lân cận. Khóa nghiên cứu kết
thúc, tôi đến Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại địa phương để xin xác nhận kết
thúc và làm thủ tục về nước công tác. Tiếp tôi là một anh cán bộ lãnh sự. Sau
khi nhận hồ sơ, anh lãnh sự bảo tôi ngồi phòng khách chờ, còn mình vào phòng
làm việc để xác minh. Vì cửa phòng không đóng nên tôi nghe vanh vách những gì
anh này nói qua điện thoại với người khác: “Này… có thằng… đến xin xác
nhận. Nó bảo nó đang nghiên cứu ở trường S. Thằng này làm giảng viên
của trường X ở thành phố HCM ấy… Nó…”.
Tôi nghe mà chóng cả mặt, miệng mồm há hốc. Đoạn trở
ra anh này lại “anh anh em em” như không có chuyện gì xảy ra. Tôi ngượng tím mặt,
vội vàng từ biệt”.
Mẩu chuyện trên phản ánh ngôn ngữ giao tiếp qua điện
thoại để làm việc nơi công sở này chưa tuân theo đúng chuẩn mực là nghiêm túc
và lịch sự.
Hiện nay có một số nhân viên phòng tiếp dân của công
an phường, của cơ quan hành chính thường không sử dụng đại từ xưng hô khi giao
tiếp, họ thường hỏi cộc lốc những câu như: “Đi đâu đấy?”, “Đến có việc gì?”
“Có việc gì không?”. Tại sao họ không thử thay bằng một câu: “Tôi có thể
giúp gì được anh/ chị?”. Những tấm biển với dòng chữ thô thiển: “Dừng
xe, xuất trình giấy tờ” cũng khiến người đến liên hệ cảm thấy không hài
lòng. Tại sao không thay bằng một câu có số lượng chữ không dài hơn bao nhiêu
mà lại lịch sự hơn rất nhiều: “Đề nghị quí khách liên hệ với phòng bảo vệ
”.
Tại phòng tiếp
dân, nếu người dân may mắn gặp được trực tiếp người lãnh đạo để trình bày thì
có khi lại được nghe ông này phát ngôn: “Mấy thằng lính của tôi chưa thấy
báo cáo gì về việc này”. Cách nói như vậy là không phù hợp chuẩn mực nơi công sở.
Còn tại bệnh viện, có trường hợp bác sĩ phòng khám đã
gọi: “Bệnh nhân số 13 vào đi” khiến người này phản ứng và xảy ra cãi vã: “Tôi
có phải là phạm nhân đâu mà gọi bằng con số 13 đen đủi”. Cách gọi này đã vi phạm
nguyên tắc của lịch sự tôn trọng. Chính vì vậy, Điều 4 của Qui định về
chế độ giao tiếp trong các cơ sở Khám chữa bệnh (Ban hành kèm Quyết định số
4031/2001/ QĐ – BYT, ngày 27/9/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế) đã ghi rõ: Khi
người bệnh đang điều trị tại khoa: thầy thuốc và nhân viên y tế phải xưng hô với
người bệnh, người nhà bệnh nhân một cách lịch sự và phù hợp với tuổi hoặc quan
hệ xã hội. Gọi người bệnh bằng cách ghép đại từ nhân xưng với họ tên người bệnh
(ví dụ: ông Nguyễn Văn A…), không được gọi người bệnh bằng “ông kia”, “bà kia”.
Tóm lại, từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú
và phức tạp. Cuộc giao tiếp sẽ trở nên tốt đẹp nếu chúng ta tuân thủ các yêu cầu
của chuẩn mực giao tiếp như lịch sự, lễ phép, đúng mực, đúng vai giao tiếp,
đúng hoàn cảnh và tuân theo những ước định, chế định của xã hội và có tính
khuôn mẫu trong văn hóa người Việt.
Tác giả Hoàng Kim Ngọc
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tiến Dũng, Lịch sự trong tiếng
Việt và giới tính (Qua một số hành động nói), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường
ĐHSP Hà Nội, 2003.
2. Lê Hoàng Giang, Cách dùng đại từ
nhân xưng của thầy và trò trong nhà trường Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu
Giáo dục Phổ thông - Viện Nghiên cứu Giáo dục, Trường ĐHSP Thành phố HCM, WWW.
Ter.edu.vn, 2010.
3. Vũ Thị Thanh Hương, Khái niệm thể
diện và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu ứng xử lịch sự, Tạp chí Ngôn ngữ, số
1, tr. 8 -14, 2002.
http://huc.edu.vn/vi/spct/id132/TU-XUNG-HO-VA-VAN-HOA-GIAO-TIEP/
Đăng nhận xét