---------- Chào mừng đến với blog của Phước Tâm! ----------

Phật giáo và kiến trúc - Nguyễn Phước Tâm dịch

Kiến trúc là một loại nghệ thuật. Sự diễn biến của kiến trúc đã phát sinh các nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, tạo hình, tạo cảnh v.v… , vì thế có người còn nói kiến trúc là mẹ của nghệ thuật.
 


Ảnh: Internet
Từ xưa đến nay, ở tất cả những nơi có tiếp xúc với đạo Phật, Phật giáo đều lưu lại trong lịch sử kiến trúc nhiều báu vật nghệ thuật đủ để tự hào trong lòng nhân thế. Ví dụ ở Trung Hoa có chùa Vĩnh Ninh xây dựng vào năm thứ nhất niên hiệu Hi Bình (516-518) Hiếu Minh Đế nhà Bắc Ngụy, được người đời ca tụng là “Thử tự tinh lệ, diêm phù sở vô” (Chùa này tuyệt đẹp, chốn Diêm Phù không có); lại ví dụ hang đá Đôn Hoàng ở Trung Quốc nổi tiếng thế giới, hang đá A-khương-đạt (Ajanta) ở Ấn Độ, cung điện Bố-đạt-la (Potala) ở Tây Tạng, quần thể kiến trúc Ngô-ca (Angkor Wat) hay còn gọi là đền Đế Thiên ở Cam-pu-chia, tháp Bà-la (Borobudur) ở In-đô-nê-xi-a, tháp Đại Kim (Shwedagon) hay còn gọi là chùa Vàng ở Myanmar v.v…, có thể nói đều là những bảo tàng nghệ thuật tổng hợp, nơi tập trung kiến trúc, điêu khắc, hội họa lại một chỗ, cho nên trong lĩnh vực kiến trúc học, Phật giáo luôn có vị trí vô cùng quan trọng.


Kiến trúc Phật giáo bao gồm tháp Phật, tự viện, hang đá… Những kiến trúc này tất nhiên có mối quan hệ khá mật thiết đối với đời sống của con người hiện đại; trong đó, tự viện là nổi bật nhất. Tự viện là nơi Tăng chúng tu hành, là trung tâm gửi gắm tâm linh của tín đồ, cũng là nơi tuyệt vời nhất để con người có thể tìm tới nghỉ ngơi, ngắm cảnh đẹp trong không khí an tịnh, thanh nhàn. Trên hết, tự viện là đại diện của Phật giáo. Tự viện thể hiện cho sự có mặt của Tam bảo Phật Pháp Tăng; có tự viện mới có thể truyền bá giáo nghĩa, mới có thể duy trì chánh Pháp. Vì vậy, muốn Phật pháp hưng thịnh, thì cần phải xây dựng chùa chiền, tăng chúng an cư.


Kiến trúc tự viện sớm nhất của Phật giáo, bắt nguồn từ thời đại Đức Phật ở xứ Ấn Độ. Sau khi quốc vương xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) là Tần--sa-la (Bimbisara) hiến tặng tinh xá Trúc- lâm (Venuvana) và trưởng giả Tu-đạt-đa (Sudatta, còn gọi là ngài Cấp Cô Độc hay Anathapindika) hiến tặng tinh xá Kì-viên (Jetavana), trở thành sự mở đầu cho kiến trúc tự viện. Sau này, tự viện nguy nga tráng lệ được xây cất khắp nơi trên thế giới, từ thành thị đến thôn quê, từ rừng sâu đến núi thẳm.


Phật giáo truyền đến Trung Quốc trong khoảng niên hiệu Vĩnh Bình (58-75) dưới thời vua Minh Đế nhà Đông Hán, Phật giáo do hai vị cao tăng là Ca-diếp-ma-đằng (Kasyapamatanga) và Trúc-pháp-lan (Dharmaratna). Đạo sĩ Luận Đạo khơi dậy lòng tin của Hán Minh Đế, khiến nhà vua hạ lệnh xây dựng tự viện Tỳ-kheo-ni (Bhiksuni) ở nội thành, và xây dựng chùa Bạch Mã tại Lạc Dương, trở thành ngọn nguồn kiến trúc tự viện Phật giáo Trung Quốc.


Giai đoạn đầu kiến trúc Phật giáo Trung Quốc lấy tháp Phật làm chính, đến thời đại Tùy Đường dần dần lấy điện Phật làm trung tâm, và phần lớn xây cất phỏng theo kiểu mẫu hoàng cung. Các cung điện thời kỳ đầu hiện còn ở Trung Quốc khá ít ỏi, tuy nhiên điện Phật lại có thể phản ánh hình ảnh cung điện về các phương diện như kết cấu, tạo hình, quy hoạch, cấu tạo… , trở thành những bằng chứng rất có giá trị trong lịch sử kiến trúc; đặc biệt là đã phát huy sự đóng góp không thể phai mờ đối với sự bảo tồn văn hóa kiến trúc truyền thống, ví dụ kiến trúc kết cầu bằng gỗ cổ xưa nhát hiện còn là chùa Phật Quang trên núi Ngũ Đài tỉnh Sơn Tây, đã giữ lại được một cách hoàn chỉnh tinh hoa nghệ thuật kiến trúc nhà Đường; hay như ở chùa Đường Chiêu Đề (Tōshōdai Temple) của Nhật Bản thì cũng có thể tìm thấy diện mạo kiến trúc Trung Quốc trong thời kỳ đầu.


Ngoài ra, kiến trúc hang đá tự viện được phân bố ở các khu vực Tây Bộ, Bắc Bộ Trung Quốc, do vì sử dụng nham bàn hoặc đá núi khai đục mà thành, rất bền vững, kiên cố, vì thế, phần lớn những kiến trúc này vẫn còn được bảo tồn cho tới nay, qua đó cho thấy còn lưu giữ dấu tích lịch sử Phật giáo Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, có giá trị vô cùng. Bên trong những tự viện hang động đó có thiết đặt nhiều Phật khám (am thờ Phật), Phật đàn (bàn thờ Phật), hoa cái (cái lọng), tượng đắp, cho đến trang sức bằng phù điêu, bích họa… , và bên cạnh đó còn cất giữ các loại kinh điển, tranh ảnh Phật, các đạo cụ pháp khí, cũng như các văn thư tự viện… , nghiễm nhiên là kho báu nghệ thuật Phật giáo, thực sự là bảo tàng văn hóa làm rung động cả thế giới. Xét về mặt lịch sử học thuật và văn hóa, những di tích ấy đều chiếm vị trí cực kỳ quan trọng.


Từ kiến trúc, điêu khắc, cho đến vô số những tác phẩm bích họa của Phật giáo đã cho thấy Phật giáo không chỉ có nghi thức trang nghiêm, giáo nghĩa rộng lớn sâu sắc, mà còn có cả đặc chất của nghệ thuật. Trong con mắt của nhiều nhà nghệ thuật và chuyên gia khảo cổ, kiến trúc của Phật giáo là sáng tác nghệ thuật phong phú, đa dạng và mang đặc sắc mỹ cảm, quả thật là một tài sản lớn lao của giới kiến trúc thế giới.


Tóm lại, kiến trúc của Phật giáo không những có những thành tựu rất cao vời trong nghệ thuật, mà còn vô hình trung cũng đã thúc đẩy sự lưu truyền của Phật pháp. Căn cứ di tích được khai quật cho thấy: Tinh xá thời Phật còn tại thế, quy hoạch dùng ánh sáng thông gió đều rất hoàn thiện, sự sắp xếp về liêu xá, phòng trọ, nhà bếp, thương khố, buồng tắm, chỗ ở nhà bệnh, cho đến sự bố trí về ao sen, bích họa, nhà kinh hành… , đều gồm có đầy đủ chức năng nghệ thuật và hoằng pháp.


Tháp Phật, tự viện hoặc kiến trúc hang đá, đều đại diện cho Phật giáo, trở thành trung tâm tín ngưỡng của tín đồ. Từ xưa tới nay, tự viện trên hết có đủ chức năng trường học, ví dụ: những quy hoạch trong tinh xá Kỳ viên Ấn Độ đều là giảng đường; tự viện cổ xưa Trung Quốc đều có thiết đặt pháp đường, tàng kinh lâu, chính là phòng học, thư viện của ngày nay. Thậm chí, bao năm qua Phật giáo từng tổ chức không ít trường học miễn phí, tự viện cũng trở thành trường học. Ở Trung Quốc, các bậc túc nho, danh tướng qua các triều đại như Lưu Hiệp[1], Phạm Trọng Yêm[2], Vương An Thạch[3], Lã Mông Chánh[4], Lương Thấu Minh[5]… , chính là những nhân vật từng khổ luyện, dùi mài kinh sử và đã thành công từ chốn tự viện.


Tự viện, thật sự giống như trạm xăng dầu của đời người, công ty tổng hợp của tâm linh, là ngôi trường bồi dưỡng nhân cách thánh hiền, cũng là nơi giao hảo qua lại của thiện hữu, và trên hết là chốn mát lành gột rửa mọi phiền tạp, u hoài. Kiến trúc tự viện trong tương lai ngoài việc bảo lưu các cơ sở như Phật điện, khách đường, trai đường, trà đường, nhà kho, còn đặc biệt nên trang bị thêm nhà hội nghị, giảng đường, thiền đường, phòng học, nhà trò chuyện, trung tâm nghe nhìn, trung tâm văn giáo (văn hóa giáo dục), phòng mỹ thuật, phòng triển lãm văn vật… , để thông qua pháp vụ, văn giáo, nghệ thuật… mà tự viện có thể phát huy đầy đủ công năng hoằng dương thánh giáo, giáo hóa xã hội, trở thành đạo tràng dung hòa chung của tăng-tín tứ chúng, trở thành ngôi trường giáo hóa xã hội, trở thành trung tâm hội nghị nghiên cứu học thuật, trao đổi tri thức, làm cho tự viện mãi mãi trở thành là nơi quay về của lòng người và là chỗ gửi gắm tinh thần.            


(Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 66 - 69)       

Đăng trên: Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 173 (15/3/2013)

[1] Lưu Hiệp (khoảng 465-520), tự Ngạn Hòa, nguyên quán ở huyện Cử, Đông Quản (nay thuộc huyện Cử, thành phố Nhật Chiếu, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà phê bình, lí luận văn học nhà Lương thời Nam Triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Hiệp từ ‘sớm có chí hiếu học, nhà nghèo không cưới vợ, nương nhờ cửa Phật, tinh thông kinh luận đạo Phật. Vào thời Lương Vũ đế, từng giữ chức phụng triều thỉnh, đông cung thông sự xá nhân. Được thái tử Chiêu Minh trọng dụng. Những năm cuối đời xuất gia đi tu, lấy tên là Tuệ Địa. Vào cuối đời Nam Tề, viết cuốn "Văn tâm điêu long", là một tác phẩm lớn về lí luận phê bình văn học cổ đại Trung Quốc.’ (Daitudien.net)
[2] Phạm Trọng Yêm (989-1052), tự Hi Văn, người quận Ngô, nay thuộc Tô Châu, Giang Tô. Là nhà văn, nhà giáo dục, tướng lĩnh và nhà chính trị thời Bắc Tống, Trung Quốc.
[3] Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn, thụy Văn, người Lâm Xuyên, Bắc Tống, nay là Giang Tây. Ông là nhà chính trị, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà cải cách kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng sai lầm trong việc xúi giục vua Tống xua quân xâm chiếm Đại Việt, chẳng những thua mà còn bị Đại Việt đem quân phá tan ba châu Khâm, Liêm, Ung.
[4] Lã Mông Chánh (944/946?-1011), tự Thánh Công. Người Lạc Dương, Hà Nam. Là một vị làm tể tướng nhiều năm xuất thân từ dân thường.
[5] Lương Thấu Minh (1893-1988), nguyên quán ở Quế Lâm, Quảng Tây, tên thật là Hoán Đỉnh, tự Thọ Minh, từng lấy bút danh là Thọ Danh, Sấu Dân, về sau mới dùng tên Thấu Minh. Ông là nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục nổi tiếng thời hiện đại, là một trong những người đại diện thời kỳ đầu cho trường phái Nho học hiện đại, là nhà hoạt động xã hội, là nhân sĩ dân chủ yêu nước.
0 comments

Lãnh cảm truyền thông – Nguyễn Khắc Giang

Thuật ngữ ‘compassion fatigue’ (suy giảm lòng thương) được dùng trước tiên trong ngành y tế nói đến việc các y tá và bác sĩ bị trơ lỳ cảm xúc khi phải tiếp xúc với quá nhiều bệnh nhân với cường độ cao.
Ảnh: Internet


Cho đến một thời điểm nào đó lòng trắc ẩn của họ sẽ không còn, kiểu như nàng Mị trong chuyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, sống trong cái khổ quen rồi thì cũng không biết thế nào là khổ nữa.
Hiện tượng này dễ thấy ở mọi ngóc ngách cuộc sống: từ quyên góp tiền ủng hộ lũ lụt cho đến giúp người bị nạn trên đường. Người ta có thể hành động rất hào hiệp trong lần đầu tiên, nhưng đến lần thứ hai, thứ ba và mọi việc vẫn như cũ, lòng tốt ban đầu sẽ khó được giữ nguyên.
Compassion fatigue trở nên phổ biến hơn với truyền thông. Nó đi kèm với thời đại công chúng bị ngập lụt bởi thông tin: độc giả đón nhận các vấn đề xã hội qua báo chí quá nhiều sẽ trở nên lãnh cảm với nó. Người ta có thể rất bất bình với tin tức đầu tiên từ các vụ hiếp dâm ở Ấn Độ, nhưng qua nhiều lần, cảm xúc đó sẽ biến mất và thay vào bởi suy nghĩ ‘lại Ấn Độ’.
Đó là mặt trái của tuyên truyền: sự tiếp cận quá mức sẽ khiến công chúng trở nên lãnh cảm.
Ví dụ gần đây nhất có lẽ là câu chuyện căng thẳng trên biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sau khi thông tin về sự việc được khởi phát ở truyền thông trong nước, nhà nhà nói về giàn khoan, người người nói về giàn khoan.
Nhưng sau gần hai tháng trôi qua và không có nhiều biến chuyển, có cảm giác là chúng ta đã dần thích nghi với chuyện này. Vài ba hôm lại có chuyện tàu Trung Quốc đâm tàu Việt Nam trên biển, lại hết sức quan ngại, nhưng cuối cùng vẫn không có đột phá nào diễn ra.
Chúng ta lại trở về với giá xăng, với an toàn thực phẩm, mùa hè nóng, và mảnh yếm đầm sen.
Trong nước còn như vậy, nói gì đến ‘công chúng quốc tế’ mà chúng ta muốn dựa vào để thực thi công lý với Trung Quốc? Có thể thấy các bài báo về tranh chấp vùng biển nơi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan đang giảm dần đều trên các tờ báo lớn quốc tế, bị che phủ bởi các sự kiện khác.
Compassion fatigue đưa ra một bài học rất đáng giá: không có sự hưng phấn, mối quan tâm nào tồn tại mãi mãi. Rồi sẽ đến lượt nó sẽ phải rời sân khấu, nhường vị trí cho các sự kiện khác. Diễn giải theo góc nhìn kinh tế học, đó là lợi ích cận biên giảm dần: ăn mãi một món dù có ngon đến đâu cũng sẽ thấy ngán.
Vì vậy, không tận dụng được đỉnh cao ‘hưng phấn’ để làm một điều gì đó, compassion fatigue sẽ tầm thường hóa mọi chuyện và rồi chính chúng ta sẽ chấp nhận ‘thực trạng’ (status quo) mới được tạo ra. Điều đáng ngại nhất không phải là hoàn cảnh khó khăn đến mức nào mà là mất đi tinh thần và tâm lý chiến đấu.
Xem phim Hunger Games, điều làm tôi nhớ nhất là câu nói của vị độc tài, đại loại là vũ khí mạnh nhất của sự phản kháng là niềm hy vọng. Một khi hy vọng không còn, việc thống trị trở nên quá dễ dàng. Đến khi sự thờ ơ ngự trị, đừng mong có gì thay đổi.

Nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/lanh-cam-truyen-thong-3009810.html
0 comments

Giáo dục Đại học Việt Nam chậm cải tổ - Nguyễn Thiện Tống

Sau khi các đại học được thu học phí, số lượng sinh viên đại học Việt Nam trong thập niên 1990 gia tăng đột biến lên 5,6 lần với tốc độ ào ạt gần 20% mỗi năm. Hậu quả là chất lượng giảm sút hết sức trầm trọng. 
 
Ảnh minh họa
 
Giáo dục  đại  học  Việt  Nam  đã không đổi  mới  nhanh  chóng  để  đáp ứng  và hỗ  trợ  kịp  thời  cho  giai  đoạn  phát  triển  nhanh về  kinh  tế  xã hội vừa qua. Giáo dục đại học Việt Nam hầu như không phát triển trong thập niên 1980 vì ngân sách cho giáo dục đại học miễn phí rất eo hẹp. 

Quản lí chồng chéo, phân tán và thiếu thống nhất

Trong  12  năm vừa  qua,  số  lượng  sinh  viên tăng 2,4 lần  với  tốc  độ  bình quân 8,4% mỗi năm, trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa phát triển đủ để bảo đảm chất lượng đào tạo. Nhiều  vấn  đề  của  giáo  dục  đại  học  có  nguồn  gốc  từ  sự  thiết  hụt  trầm trọng nguồn tài chính và quyền tự  trị  đại học. Học phí  là nguồn thu  đáng kể  cho  giáo  dục  đại  học. 

Ở  Việt  Nam  nguồn  thu  từ  học  phí  chiếm  40% tổng  thu  của  các  trường  đại  học  công  lập.  Vấn  đề  khiếm  dụng và thất nghiệp  trí  thức  lại  càng trầm  trọng  ở  Việt  Nam  khi  cơ cấu  tổ  chức  giáo dục  đại  học  và chương trình đào tạo lạc  hậu  không  phù hợp  cho  tình trạng  đổi  mới  kinh  tế  và xã hội.  Bằng  chứng  là sự  cách  biệt  giữa  khả năng chuyên môn và ngành nghề của những người tốt nghiệp đại học với nhu cầu kỹ năng mới của thị trường.


“Chiến  lược  phát  triển  giáo  dục  2011-2020”chưa đưa ra biện  pháp giải  quyết  được  mâu  thuẫn  giữa  phát  triển  số  lượng  với  nâng  cao  chất lượng. Vì thế  cần  phân  tích  để  thấy  rõ rằng  cuộc  khủng  hoảng  kép  về  số lượng  và chất  lượng  của  giáo  dục  đại  học  nước  ta  kéo  dài trong hơn hai thập  kỷ qua có nguyên nhân chủ  yếu  ở  việc  tổ  chức  quản  lý  giáo  dục  đại học.
Nhược  điểm  lớn  nhất  về  tổ  chức  quản  lý  của  hệ  thống  giáo  dục  đại học  là sự  phân  tán  trách  nhiệm quản  lý  cho  qua  nhiều  bộ  và nhiều  tỉnh thành chủ quản. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đại  học  giữa Bộ  Giáo  dục  và Đào tạo  với  các  bộ  ngành khác đã làm cho việc  quản  lý  nhà nước  đối  với  hệ  thống  giáo  dục  chồng  chéo,  phân  tán, thiếu thống nhất. Do đó cần bải bỏ cơ chế Bộ  chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học.

Nhược  điểm lớn  thứ  hai  về  tổ chức  quản  lý  của  hệ thống  giáo  dục  đại học  là sự  tách  rời  giữa  các  trường  đại  học  và các cơ quan nghiên cứu khoa học.  Sự  tách  rời  này làm cho những  người  làm khoa học  ít  được tham gia giảng dạy và giảng viên đại học bị hạn chế tham gia việc nghiên cứu  khoa  học,  sinh  viên cũng ít được  tiếp  cận  những  nhà khoa học  giỏi.

Chính sự  tách  rời  này làm cho trường  đại  học  chưa thực  sự  là trung tâm chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Nhược  điểm  lớn  thứ  ba  về  tổ  chức  quản  lý  của  hệ  thống  giáo  dục  đại học  nước  ta  là sự  phân  tán  của  quá  nhiều  học  viện  và trường  đại  học chuyên ngành riêng rẽ  với  các  chương trình đào tạo  quá  hẹp  theo  mô hình của  Liên Xô cũ. 

Chính  việc  tổ  chức  quản  lý  các  trường  đại  học chuyên ngành có mục  tiêu đào tạo  nặng  về  kiến  thức  cụ  thể  theo  những tiểu  chuyên ngành rất  hẹp  mà người  sinh  viên không được  trang  bị  một nền  tảng  vững  chắc  về  giáo  dục  tổng  quát  cần  thiết  cho  việc  tự  học tập suốt  đời  và khả  năng  đáp  ứng  cao  với  môi  trường  làm việc  thay  đổi không ngừng trong tương lai.

Hiện  nay  Việt  Nam  hầu  như không có các viện  đại  học  đa  lĩnh  vực loại  nghiên cứu  và tinh hoa trong đó bao gồm  các  viện  nghiên cứu  và phần  lớn  sinh viên là trên đại  học. Mặt khác Việt Nam  cũng rất thiếu các trường  đại  học  cộng  đồng  và cao đẳng  ở  các  tỉnh  thành để  đáp  ứng  nhu cầu  gia  tăng  sinh  viên đại  chúng  mà không làm giảm  chất  lượng  của  các viện đại học tinh hoa.

Việt Nam vừa có Luật Giáo dục Đại học nhưng mô hình viện đại học đa lĩnh  vực  và quyền  tự  trị đại  học  chưa được  coi  trọng  nên giáo dục  đại học  sẽ  tiếp  tục  kém  hiệu  quả  và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của phát triển. Nếu  Việt  Nam  chỉ  có  những  đổi  mới  manh  mún  và chậm  chạp  mà không có chủ  trương và chính sách cải  tổ một  cách  cơ bản  hệ thống  giáo dục  đại  học  bằng  biện  pháp  sáp  nhập  và tái cấu  trúc  các  cơ sở  giáo  dục đại học thành các viện đại học đa lĩnh vực  được giao quyền  tự trị đại  học cao thì giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục kém hiệu quả, kém chất lượng và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của  phát triển, rồi  biến  thành trở  lực cho phát triển.

Chương trình đào tạo lạc hậu
Công cuộc cải tổ kinh tế của Việt Nam sau những thành công đáng kể ban đầu  đã gặp  phải  những  vấn  đề  nan  giải  khác.  Công  cuộc  cải  tổ  kinh tế  phải được  tiếp  tục  tiến  hành và đồng  thời  các  lĩnh  vực  khác  cũng  phải được cải tổ mới mong Việt Nam phát triển nhanh và bền vững được.

Một  trong  những  vấn  đề  nan  giải  đó  là sự  yếu  kém  về  số  lượng  và sự giảm  sút trầm  trọng  về  chất  lượng  ở  giáo  dục  đại  học, trong hơn hai thập kỷ  vừa  qua. Cuộc khủng hoảng  về  giáo  dục  đại học trong tình trạng  ngân sách cho giáo dục  rất  eo  hẹp  cũng  đã được  xác  định  từ  năm  1992  trong báo cáo “Phân Tích về  Giáo  Dục  và Tài Nguyên Nhân Lực”  do UNESCO cùng UNDP và Bộ Giáo Dục phối hợp nghiên cứu.

Kinh nghiệm trên thế giới, nhất là ở các nước châu Á phát triển nhanh cho thấy  rằng  giáo  dục  đại  học  có  vai  trò cực  kỳ  quan  trọng  trong  tăng trưởng  kinh  tế và phát triển xã hội  thời đại hậu công  nghiệp. Nhu cầu cải tổ  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam  để  đáp  ứng  những  thay  đổi  về  kinh  tế  xã hội  là quá rõ ràng. Giáo dục  đại  học  Việt  Nam  đã không đổi  mới  nhanh chóng để  đáp  ứng  và hỗ  trợ  kịp  thời  cho  giai  đoạn  phát  triển  nhanh  về kinh tế xã hội vừa qua.

Một  tư tưởng  đổi  mới  đại  học  ở  nước  ta  đầu  thập  niên 1990 là chủ trương hình thành những  đại  học  đa  lĩnh  vực  theo  mô  hình đại  học  Anh Mỹ.  Đối  với  đa  số  những  nhà quản  lý  đại  học  Việt  Nam  thì đại  học  đa lĩnh  vực  là kiểu  mới,  liên kết  các  lĩnh  vực  khoa  học  tự  nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội.

Tuy nhiên quá trình cải tổ tổ chức quản lý này đã rất chậm và nay vẫn chưa hoàn tất, thậm chí còn bị đảo ngược. Nếu  không  kịp  thời  có  những cải  tổ  lớn  lao  và căn bản,  hệ  thống  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam  tiếp  tục kém hiệu  quả,  không  đáp  ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của  phát triển,  rồi  biến thành trở lực cho phát triển.

Vấn  đề  khiếm  dụng  và thất  nghiệp  trí  thức  lại  càng trầm  trọng  ở  Việt Nam khi cơ cấu tổ chức giáo dục đại học và chương trình đào tạo lạc hậu không phù hợp  cho  tình trạng  đổi  mới  kinh  tế  và xã hội.  Bằng  chứng là sự  cách  biệt  giữa  khả  năng  chuyên môn và ngành nghề  của  những  người tốt nghiệp đại học với nhu cầu kỹ năng mới của thị trường.

Nhiều  vấn  đề  của  giáo  dục  đại  học  có  nguồn  gốc  từ  sự  thiết  hụt  trầm trọng nguồn tài chánh và quyền tự  trị  đại học. Học phí  là nguồn thu  đáng kể cho giáo dục đại học. Ở Việt Nam nguồn thu từ học phí chiếm khoảng 40% tổng thu của các trường đại học công lập.

Trong công cuộc  cải  tổ  giáo  dục,  việc  tăng  thêm đầu  tư vật  chất  tài chính là điều  kiện  cần, nhưng chưa đủ. Tăng thêm tiền cho hệ thống giáo dục  đại  học  hiện  hữu  sẽ  không  tạo ra  kết  quả tốt  hơn, mà chỉ  nuôi dưỡng và duy trì sự quản trị yếu kém của hệ thống này thôi.

“Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”chưa đưa ra biện pháp giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chưa có giải  pháp  triệt  để  cho  những  vấn  đề  cốt lõi về tổ chức và quản trị giáo dục đại học. Việt Nam vừa có Luật Giáo Dục Đại Học nhưng mô hình viện đại học đa lĩnh  vực  và quyền  tự  trị đại  học  chưa được  coi trọng  nên giáo dục  đại học  sẽ  tiếp  tục  kém  hiệu  quả  và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của phát triển.

Vì thế  cần  phân  tích  để  thấy  rõ rằng  cuộc  khủng  hoảng  kép  về  số lượng  và chất  lượng  của  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam kéo dài trong hơn hai thập  kỷ qua có nguyên nhân chủ  yếu  ở  việc  tổ  chức  quản  lý  hệ  thống giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học.

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Giao-duc-Dai-hoc-Viet-Nam-cham-cai-to-post127362.gd
0 comments

10 việc bạn không nên làm chốn công sở

Có những việc bạn tuyệt đối không nên làm chốn công sở:

 Ảnh minh họa

1. Không bao giờ nhận xằng công lao của người khác:
 
Nhưng cũng đừng để người khác nhận xằng công lao của mình. Một thái độ trung thực và rõ ràng trong công việc sẽ được bạn bè đồng nghiệp và sếp quý mến. Đồng thời sếp cũng sẽ đánh giá rất cao việc bạn biết cách đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình, vì chỉ khi bạn biết cách bảo vệ quyền lợi của mình bạn mới có thể bảo vệ được quyền lợi cho cơ quan khi được thăng tiến.

2. Không can thiệp vào công việc của người khác:
 
Mỗi người đều có phương pháp và cách giải quyết vấn đề khác nhau, vì thế họ không cần bạn chỉ đạo họ phải làm thế này hay thế kia. Khi bạn can thiệp vào công việc của người khác đồng nghĩa với việc bạn thiếu tôn trọng họ và rất dễ bị mất lòng. Trường hợp duy nhất bạn có thể can thiệp là khi làm việc nhóm hoặc hoạt động tập thể. Hãy nhớ, đừng “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, hãy ngoan ngoãn hoàn thành tốt phần việc của mình, thế là đủ.

3. Không từ chối nhận trách nhiệm khi phạm sai lầm:
 
Sẽ không có vấn đề gì nếu bạn dũng cảm nhận lỗi thay vì truyển giao trách nhiệm cho người khác. “Đổ lỗi cho người khác là cách làm của kẻ tiểu nhân. Những người chọn cách thức này để chốn tránh trách nhiệm sẽ chỉ khiến cuộc chiến giữa họ và những đồng nghiệp khác ngày càng quyết liệt. Thêm nữa, họ sẽ chẳng bao giờ được coi trọng” chuyên gia nghề nghiệp Alex nói.

4. Đừng tỏ ra quá thân thiết với sếp:
 
Lúc đầu bạn thấy có vẻ việc kết thân này đem lại cho bạn nhiều thuận lợi, nhưng về sau bạn sẽ thấy nó đem lại nhiều phiền toái hơn là ích lợi. Đừng để tình cảm xen lẫn vào công vịêc. Nếu bạn nhìn thấy ai đó đã từng được thăng tiến vì tình riêng, đừng dại gì học theo họ. Đó là sự thăng tiến không bền, một lúc nào đó bạn sẽ nhìn thấy người đó bị “sa cơ” cũng vì tình riêng.

5. Đừng để mình rơi vào những rối rắm của những mối tình nơi công sở:
 
Đó là những tảng băng trôi huỷ hoại con đường thăng tiến của bạn bất cứ lúc nào. Bạn sẽ là tâm điểm của những “búa rìu” dư luận, hay những lời đơm đặt chẳng hay ho gì.

6. Không dùng email công sở để "buôn chuyện" vô bổ:
 
Tán gẫu trong công sở là nhu cầu không thể thiếu của bất kỳ ai. Nó giúp giảm stress cực nhanh cho nhân viên trong những giờ làm việc căng thẳng, tuy nhiên mặt tiêu cực cũng không ít. 
 
Trên thực tế, nhân viên ít khi có cái nhìn lạc quan về công ty, về các sếp và đồng nghiệp của mình. Nếu "đề tài" này được đem ra "tám", nó sẽ tác động không tốt đến văn hóa công sở, dẫn đến năng suất kém, thậm chí lãng phí thời gian của công ty. 
 
Tờ USA Today bình luận: “Buôn dưa lê” ở công sở là một vấn nạn ngày càng gia tăng. Với các nhà tuyển dụng, họ đau đầu với việc hạn chế tin đồn nhảm lan nhanh với tốc độ chóng mặt. Với sự phát triển không ngừng của truyền thông điện tử, những tin đồn vô căn cứ “bay” liên tục vào hộp mail của các nhân viên dù rằng họ ít khi có chủ tâm thực hiện công việc này. Điều này có khả năng hủy hoại cả sự nghiệp của các nạn nhân. Thật vậy, chỉ cần nhấn nút “send” hoặc gửi tin bằng chế độ CC, BCC, tin đồn được lan truyền rất nhanh và dễ dàng. 
 
Do đó, lời khuyên dành cho bạn là: Không dùng email để “buôn chuyện”, cho dù đó là chuyện cá nhân hay chuyện ở công ty. 
 
7. Đừng lãng phí thời gian vào những việc vô ích:
 
Khi chúng ta không tận dụng quỹ thời gian làm việc ở công ty cho công việc thì công ty rất khó đạt được hiệu quả cao trong công việc, đạt được mục tiêu đề ra, đồng thời mất đi nhiều cơ hội làm ăn có lợi. Công ty không tận dụng được nguồn nhân lực vốn có, xảy ra tình trạng có nhân viên mà công việc không được giải quyết. Công ty cũng mất một khoản chi phí khổng lồ bởi nhân viên không làm việc. Đó là những thiệt hại lớn nhất mà không lượng tiền nào bù được. 
 
8. Đừng biến công ty thành nhà riêng: 
 
Không ít người chọn cách tận dụng thời gian tới công ty để ăn sáng, uống cafe, tắm, gội. Một số cá nhân thường tới công ty kèm theo một túi đồ ăn sáng. Họ thong thả ăn, rồi uống cafe, ít nhất cũng mất 30 phút. Một số người lại thường tới quẹt thẻ rồi rủ nhau ra các quán ăn gần đó. Vừa ăn, vừa trò chuyện chán chê rồi mới trở lại công ty. 
 
Nhiều người còn không ngần ngại mang dầu gội đầu đến công ty để gội cho tiện. Tranh thủ các đồng nghiệp chăm chú làm việc, thế là các nàng chiếm dụng nhà tắm tới hàng tiếng đồng hồ. 
 
Có những phòng còn tận dụng điện của công ty, mang cả bếp từ, nồi cơm điện, ấm điện đến văn phòng để nấu cơm, nấu mì cho bữa trưa.
 
Như vậy không những công ty chịu thiệt hại mà hiệu quả làm việc của những người này cũng không cao.
 
9. Đừng làm "thiên lôi" chốn công sở:
 
Nhưng nếu công việc hằng ngày của bạn là máy móc tuân theo và thực hiện các chỉ dẫn của sếp – không sáng tạo, không đột phá – bạn có thể chỉ là “thiên lôi” không hơn không kém.
 
Công sở ngày nay không chỉ đơn thuần đòi hỏi nhân viên ép mình trong khuôn khổ hoàn thành những gì được giao, mà hơn thế, mỗi cá nhân cần phải phát huy sáng kiến và luôn vươn tới hiệu suất tối đa. Nói cách khác, cho dù bạn chỉ là một nhân viên vô danh vô tính trong một tập thể, bạn cũng cần suy nghĩ và hành động như một lãnh đạo thực thụ.
 
10. Đừng tỏ ra kiêu ngạo khi bạn được đánh giá cao hay đề bạt:
 
Điều đó không có nghĩa là bạn không ý thức được địa vị mới của mình. Bạn cần để mọi người ý thức được điều đó những hãy cố gắng duy trì mối quan hệ thân thiện với đồng nghiệp trước kia. Vì chính sự yêu quý của đồng nghiệp và thủ trưởng là cơ hội để bạn thăng tiến lên nấc thang cao hơn trên con đường công danh sự nghiệp của mình.

Nguồn:  http://www.baomoi.com/10-viec-ban-khong-nen-lam-chon-cong-so/146/13932042.epi
0 comments

Luân lí xử thế của Phật giáo - Nguyễn Phước Tâm dịch

Con người từ tấm bé hầu như ai cũng được dạy dỗ phải có quan niệm luận lí đạo đức, ví dụ các mĩ đức như lớn nhỏ cần có thứ tự, anh thân em kính, cư xử với người thì cần chân thành. Gọi là “luân lí”, chính là phép tắc bất thành văn hỗ tương qua lại giữa người với người. Tùy kiểu người, cá tính, thời gian và không gian (thời không) khác nhau mà có thái độ ứng xử khác nhau.

 
 Ảnh: Internet

Trên thực tế, sự tương hỗ qua lại giữa người với người không đơn thuần chỉ có một kiểu. Ví dụ: một người có thể bao gồm nhiều vai như vừa là bố, vừa là anh cả, vừa người bạn, vừa là quản lí… Như vậy, tính phức tạp của nó là không thể tránh khỏi; lại thêm vào đó là bối cảnh thời không thay đổi liên tục, tất nhiên sẽ tạo ra càng nhiều khốn cảnh cho người thời nay. Vì vậy, làm thế nào ở trong hoàn cảnh khó khăn ấy mà vẫn có thể sống được một cách tự tại viên dung, đấy mới là vấn đề quan trọng nhất đối với người hiện đại.



Nền tảng luân lí quan Phật giáo 



Phật Đà một đời hoàng pháp, chưa bao giờ xa rời “mối quan tâm đối với con người”, cũng chính là những vấn đề trong đời người chúng ta có thể sẽ vấp phải, hễ là vấn đề tình cảm, sự nghiệp, gia đình…nhất nhất đều còn giữ lại phương pháp giải quyết, cung cấp cho những ai có nguyện vọng siêu việt bản ngã có thể vận dụng nó để hóa giải mọi vấn đề đang vướng mắc, việc thảo luận lấy “con người làm trung tâm” của Phật giáo chính là nền tảng luân lí quan Phật giáo.



Con người có đặc chất quần cư (sống tụ tập, bầy nhóm), mặc dù cũng có lúc độc cư (sống một mình, đơn độc), nhưng không phải vì vậy mà không mong muốn người khác chú ý đến sự tồn tại của mình, tôn trọng mình, và cái mong muốn sau cùng là có thể sống một đời an hòa lợi lạc. Mối quan hệ hỗ tương giữa người với người trong cuộc sống ở đây, thông qua cách hiểu biết khác nhau của mỗi người, sẽ có phương thức xử lí khác nhau, tuy vậy đôi lúc vẫn xuất hiện tình trạng cư xử không hợp ý người. Phật Đà thông qua sự thuyết minh nguyên lí duyên khởi, muốn con người học tập và nhận thực một cách rõ ràng mọi chân tướng của thế gian, tiến xa hơn có thể có được tư duy, lời nói, hành vi cử chỉ đúng đắn, để cải thiện những điều bất như ý trong cuộc sống.



Phương pháp đầu tiên được đưa ra chính là Bát chính đạo (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, và chính định), nói rõ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta nên đối đãi, chọn lựa và hành động như thế nào cho đúng đắn, để dưỡng thành phép đối nhân xử thế một cách chân thực nhất. Mặc dù, trong lịch sử phát triển của Phật giáo, từ Ấn Độ- cội nguồn nguồn Phật giáo, cho đến các nơi trên thế giới, dù rằng các chi nhánh của Phật giáo có một vài điểm khác nhau, nhưng nền tảng của sự quan tâm đối với con người của Phật giáo thì trái lại chưa hề thay đổi.



Tính nhu cầu thiện hữu



Phật Đà nhắm vào các vấn đề của con người (Tập thánh đế), mà nêu ra con đường giải quyết (Đạo thánh đế), để mỗi một người theo đuổi đều có thể li khổ (Khổ thánh đế) đắc lạc (Diệt thánh đế). Vì vậy, Phật giáo không phải là tôn giáo chỉ bảo con người tự tìm kiếm khổ đau, mà là muốn thông qua học tập hiểu rõ pháp duyên khởi thế gian rồi thực hành và chung sống với nhau một cách hòa thuận vui vẻ và tự tại. Trong cuộc đời của con người, điều khiến cho con người đau buồn nhất, không việc gì bằng người yêu thương nhất của chúng ta lìa xa cõi nhân gian này, đấy là một loại khổ mang tên ái biệt li (thương yêu nhau nhưng phải xa lìa nhau). Điều khiến người ta bi phẫn căm uất, không việc gì bằng bị cha mẹ lừa dối, bị bạn tốt bán rẻ, thậm chí đớn đau nhất là bị người đời xa lánh, ruồng bỏ, đấy là một trong những nỗi âu lo lớn nhất của con người thời nay.



Từ nhỏ đến lớn, thường sợ nhất nghe thấy cha mẹ bán rẻ chính mình, là lúc cha mẹ nói với hàng xóm láng giềng hoặc là những bạn bè thân thích khác những lời trách móc như, rằng thành tích chúng ta chưa đủ lí tưởng, hoặc trách móc những chuyện tương tự. Hoặc là đã quyết định một chọn lựa nào đó, nhưng trái lại không được sự ủng hộ của cha mẹ, bạn bè…, trong tâm lí học y học thường nói đến tác dụng to lớn của sự ủng hộ của người thân đối với người bệnh, nó thậm chí là nhân tố chính quyết định con người có muốn tiếp tục sinh tồn nữa hay không. Ở đây nói rõ cần dùng thái độ luân lí thích hợp, thỏa đáng để xử trí các mối quan hệ như cha mẹ, anh chị em, đồng nghiệp, bạn bè…



Tiêu chuẩn của thiện hữu



Với con người đang sinh sống trong thế gian này mà nói, muốn lựa chọn thay đổi cha mẹ, anh em, chị em thực sự là điều không thể, nhưng trái lại có thể bắt đầu cải thiện từ thái độ của chúng ta. Phật Đà từng chỉ ra bạn bè có bốn loại: “Có bạn như hoa, có bạn như cân, có bạn như núi, có bạn như đất. Thế nào gọi là như hoa? Lúc tốt đẹp thì quây quần, khi suy sụp thì vứt bỏ; nếu giàu sang thì thân cận, lúc nghèo khó thì quên mất, là bạn như hoa vậy. Thế nào gọi là như cân? Vật nặng thì đầu cân chùng xuống, vật nhẹ thì võng lên; có giúp đỡ thì kính trọng, không giúp đỡ thì lạnh nhạt, là bạn như cân vậy. Thế nào gọi là như núi, ví như núi vàng, bất kể loài chim thú nào một khi đến gần đó, đều hiển lộ ánh vàng lấp lánh, loại bạn này cho dù là ai, lúc thân cận đều được thơm lây, có thể “có phước cùng hưởng”, là bạn như núi vậy. Thế nào gọi là như đất? Những thứ thải ra của chúng ta đều rơi xuống đất, lúc giận hờn còn giẩm đạp lên nó, nhưng trăm thứ ngũ cốc lương thực đều phải sinh trưởng lớn lên từ đất, trong đất cũng ẩn chứa nhiều tiền bạc châu báu, loại bạn này hào phóng bố thì, quan tâm chúng nhân, đối xử với mọi người một cách nồng hậu tử tế, không những có phước cùng hưởng với người khác, mà còn cao hơn là dù cho người ta gièm pha nói xấu họ, thì họ cũng có thể âm thầm lặng lẽ chịu đựng, bao dung như đất, chính là bạn như đất vậy” (dẫn từ “Phật Thuyết Bột Kinh Sao”).



Có một số người thì làm việc thiện là chỉ để khoe khoang, muốn cả thiên hạ ai cũng biết đến mình, cho nên chỉ muốn thêu hoa trên gấm, mà không muốn làm một người “đưa than trong tuyết” một cách thầm lặng. Có một số người tiêu chuẩn giao thiếp qua lại với người khác, là thiết lập trên của cải vật chất của đối phương. Lại có một số người nguyên tắc thân cận với người khác, là xây dựng trên quyền thế của đối phương. Tất cả những người này đều là chỉ có thể cùng nhau hưởng lạc thú, mà không thể cùng nhau chia sớt khi đối phương gặp hoạn nạn, tất nhiên sẽ tạo ra cho những người gặp phải hoạn nạn hoặc những người gặp phải hoàn cảnh khó khăn có cảm giác bị bỏ rơi, cô lập.



Đồng thể và cộng sinh  



Trên thực tế, lúc chúng ta cảm thấy cô độc, thì cần phải phản tỉnh (xét lại mình) “trước khi muốn người ta đối xử với mình như thế nào, thì đầu tiên tự hỏi mình đã đối xử với người ta như thế nào trước”. Thử nghĩ lại xem, người mà chúng ta quen biết có thể vẫn không đến một phần ngàn vạn dân số toàn cầu, cho nên nên biết rằng sự quen biết nhau giữa người này với người kia, cũng là một dạng duyên phận hiếm có và khó được, bất luận là trong hoạt động thể thao thư giản, hay là trong cơ quan đơn vị, cùng với họ chung sống và làm việc, hầu như đâu đâu cũng cần sự giúp đỡ lẫn nhau, các phương tiện và của cải để phục vụ trong cuộc sống hàng ngày như ăn uống, mang mặc, trú ngụ và đi lại…cũng đều cần mọi người cùng nhau chung sức hợp tác, tương trợ.



Vì vậy, cần trân trọng thời giờ mỗi lúc gặp gỡ nhau, cùng nhau nâng cao nội hàm và cái đẹp của sinh mệnh, thì sẽ có mối quan hệ giống như Phật Đà với quảng đại chúng sinh, đấy chính là tinh thần “tâm bao thái hư, hung hoài đại chúng” (tâm bao trùm thái hư, lòng luôn nhớ nghĩ đại chúng) mà Phật Đà đã từng thuyết, nếu được như thế thì đương nhiên sẽ không còn gặp thấy những người kiểu như người dưng nước lã nữa, trong cuộc sống này chúng ta càng không nên dùng thái độ căm thù cư xử toàn thế giới. Lấy tâm chân thành, tâm bao dung để đối diện, học tập tiếp nhận duyên phận, tạo ra duyên phận và cải thiện duyên phận. Cái gọi là “tự tịnh kì ý” trong Phật môn, chính là nhấn mạnh tính “tự giác” của con người, giác sát thái độ và hành vi của mình khi đối diện với người, việc và vật. Bạn bè là như thế, trong công việc cũng là như thế. Bởi vì trên chức trường, việc bổ trợ phối hợp làm việc nhóm với nhau đã là một nửa của thành công, mỗi một người đều cần phải cố gắng hoàn thành bổn phận của chính mình, tức có thể hiểu biết để tôn trọng và bao dung người khác.



Truy vấn giá trị sinh mệnh    



Giữa lúc đêm sâu người vắng, có thể từng nghĩ qua giá trị sinh mệnh của bản thân ở đâu? Đây là một vấn đề định nghĩa ý nghĩa tầng sâu sinh mệnh tự thân. Từ ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, con người vì giá trị quan trong cách nhìn cách nghĩ của chúng ta mà dốc toàn tâm toàn lực vào công việc, cho đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới luận định, lúc ấy thì chúng ta còn lại được mấy phần giá trị? Điều này đề cập đến việc chúng ta nên định nghĩa giá trị bản thân như thế nào. Trên cõi đời này có hay không giá trị đúng đắn để có thể truy tầm? Con người sống vì cái gì? Rốt cuộc có hay không có thể nâng cao giá trị tự thân để có thể sống một cách vui vẻ tự tại?



Định nghĩa giá trị sinh mệnh



“Ta là ai?” Một người mất mát hồi tưởng có thể sẽ hỏi như thế, đối với một đứa trẻ đang trong giai đoạn trưởng thành càng không ngừng phản vấn “ta là ai?” Trên thực tế, đời người chúng ta ai cũng đang ra sức tìm kiếm định vị trong giá trị sinh mệnh tự thân. Từ nhỏ, chúng ta được xây dựng định vị của chúng ta từ trong luân lí gia đình, càng trưởng thành, mức độ tiếp xúc công việc cũng như phạm vi tìm tòi học hỏi trở nên rộng hơn. Từ trong các mối quan hệ giao tế và mở rộng ấy, giá trị sinh mệnh tự thân của chúng ta không ngừng thay đổi và được đánh giá lại. Có một vài người mong đợi tìm được giá trị từ trong sự khen ngợi và tiếng vỗ tay của người khác, hoặc là tìm kiếm thành quả trong công việc, thậm chí tiền tiết kiệm để ở trong ngân hàng hay phòng ốc, điền sản, giấy khen, huân chương cho đến việc ẩm thực mang mặc biểu trưng giá trị của bản thân. Nhưng rốt cuộc thì giá trị bản thân như thế nào mới có thể khiến cho người khác cướp không được, trộm không xong, đánh không gảy, ngược lại có thể tăng trưởng giá trị bản thân chúng ta, xa hơn là tăng thêm sự tự tại trong cuộc sống?



Đặt sai giá trị sinh mệnh



Một vật cổ vô giá, mọi người đều muốn thu thập cất giữ. Nhưng, nếu gặp thời kì chiến tranh loạn lạc, thì ngay tính mạng bản thân và gia đình còn không thể bảo vệ nỗi, làm sao có thể lấy tiền bạc để đi mua đồ cổ? Có người năm trước thu nhập được một nghìn vạn, nhưng vẫn vì thu nhập mỗi năm một vạn đồng mà liều mạng, lúc qua đời có thể mang theo được bao nhiêu thứ đáng giá. Cuối cùng cái gì mới là giá trị có thể nắm chắc trong tầm tay? Những thứ ở trong thế gian này, thứ nào có thể vĩnh hằng bất biến? Thịnh hành rồi cũng sẽ thoái trào, thị trường chứng khoán có thể sụp đổ, ngoại tệ có thể sụt giảm, cũng chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư trong chớp mặt đột nhiên chỉ còn lại hai bàn tay trắng, nhảy lầu tự vận. Họ đều đã quá xem nhẹ giá trị sinh mệnh tiềm tại cần được triển khai mở rộng, giá trị này không phải do từ bên ngoài mang lại, càng không thể từ trên trời rơi xuống, đương nhiên cũng không thể xây dựng trong tiếng vỗ tay hoặc reo hò nào. Chỉ cần có niềm tin, chịu nỗ lực, thì giá trị sinh mệnh có thể duy trì ở điểm cao nhất. Lúc bạn mất đi tất cả giá trị ngoại thân, thì chớ quên rằng bạn còn có giá trị sinh mệnh tiềm ẩn đang nằm trong tầm tay.



Giá trị chân chính của sinh mệnh



Cha đẻ phục hưng Phật giáo Ấn Độ, Tiến sĩ Bhimrao Ramji Ambedkar (14/4/1891-6/12/1956) từng nói: “Mặc dù bạn nghèo đến nỗi chỉ còn lại một chiếc áo, thì bạn cũng nên giặt nó cho sạch sẽ, để cho khi mình mặc vào nhìn thấy vẻ tôn nghiêm”. Trên thực tế, những người bình thường chỉ chú ý đến mình đã đánh mất đi bao nhiêu thứ thuộc về bản thân, cũng chỉ chú ý đến “người khác có, tại sao chúng ta lại không có?” Đấy là một loại mong muốn mãnh liệt rất bình đẳng trên bề mặt bên ngoài, tất nhiên sẽ không có cách nào vượt khỏi những suy nghĩ giành giật, tranh đoạt như “phi thử tức bỉ”, kết quả vẫn cứ rơi vào vòng gông cùm xiềng xích toan tính so đo, như thế sẽ sống trọn một đời sầu ưu khổ não, mãi mãi tìm không được ý nghĩa sinh mệnh tồn tại tự thân.



Trên thực tế, từ trong sâu thẳm cõi lòng của mỗi một người, bao giờ cũng có cảm giác tự ti, cảm giác mình hơn hẳn người khác ở một vài phương diện nào đó, thường hay không chấp nhận cái tốt của người khác (vì sợ họ hơn mình), càng không chịu chấp nhận sự bất đồng ý kiến giữa ta với người, đã quên mất cần phải quý trọng những gì hiện hữu của mình. Là bởi vì ở đây chúng ta còn chưa biết học tập để thưởng thức mỗi một cá thể duy nhất, đã quên nói với chính mình phải học tập đối đãi bình đẳng với đại chúng hoặc đi cư xử tất cả việc nhân gian xung quanh một cách ôn hòa nhã nhặn, nếu thật sự có thể cư xử hết thảy người và vật như thế, thì cảm giác tự ti hoặc cảm giác tự cho mình hơn hẳn người khác sẽ đều có thể tiêu tan, sóng lòng cuộn trào dữ dội sẽ trở lại lặng yên. Lúc này, việc ăn- mặc- ở- đi lại, chúng ta sẽ có cảm giác như nhau, tức không vì mãn hán toàn tịch hay cơm thường gia đình mà khởi nên tâm niệm so sánh, trái lại sẽ vui vẻ hưởng thụ trọn bữa cơm một cách ngon lành. Trong cuộc sống, sẽ không còn truy cầu nguy nga lộng lẫy, chỉ có sự quan tâm một cách chăm chút tỉ mỉ đến sinh mệnh, mới có thể thể ngộ giá trị chân chính của sinh mệnh.



Tính khả năng của cuộc sống tự chủ   



Danh và lợi từng là sợi dây trói buộc của bao nhiêu người, từng là tảng đá lớn không thể để xuống được trong lòng của bao nhiêu người. Bởi vì, chúng ta từ hồi còn bé thơ đã được dạy dỗ cần phải tranh giành, không chịu thua kém ai, cần phải cất đầu dậy, dẫn đầu hay nổi trội, nhưng trong số chúng ta mấy ai vượt trội hơn người hoặc có thể đứng đầu lãnh đạo, chúng ta vẫn chỉ là kẻ bình thường trong muôn nghìn chúng sinh, học tập thưởng thức một chút về sự “không bình thường trong bình thường” của mình, chúng ta đều là sự kì vọng duy nhất trong con mắt của cha mẹ, hãy thầm lặng cho đi một chỗ để xoay sở. Lúc có một vài người hiểu được tính tất yếu hoàn thành mục tiêu, thì họ sẽ dốc toàn sức vào công việc, năng lực tiềm ẩn bên trong của chúng ta và đặc chất “không cho người biết” cuối cùng sẽ được triển khai và mở rộng một cách đầy đủ nhất. Thực ra, thắng thua chỉ trong một niệm, hãy thử xem bản thân từ khía cạnh nào để tự mình đánh giá mà thôi.



Sự hoàn mĩ trong bất hoàn mĩ



Sinh mệnh của mỗi người đều như là một hình cầu bị thiếu đi một góc cạnh, nêu không gặp khổ nạn chúng ta sẽ cống cao ngã mạn, nếu không trải qua bể dâu thì không kích thích được từ tâm bi nguyện tâm, thể nhận ra được rằng đời người có bất hoàn mĩ, mới có thể manh nha truy tìm nguyên động lực viên dung chân thiện mĩ.



Trong cuộc sống hàng ngày của người bình thường, bao giờ “những thứ cần thì cũng không nhiều, nhưng những thứ muốn thì trái lại rất nhiều”. Kết quả chúng ta đã vô tình đánh mất đi rất nhiều thứ. Đời người Bát nhã sẽ không nhớ nghĩ quá khứ, càng không ảo tưởng tương lai, chỉ biết trân trọng những gì hiện có; tuy vậy, làm người chúng ta thực sự không một lần mơ ước thực hiện điều gì đó tốt đẹp trong tương lai chăng? Đương nhiên là có, nhưng ước mơ ấy tất nhiên sẽ không hiện hữu những so đo toan tính không cần thiết.



Có một vị Pháp sư nhỏ một giọt mực trên tấm vải trắng, rồi hỏi các đệ tử: “Đây là cái gì?” Các đệ tử dị khẩu đồng thanh đáp: “Một chấm đen!” Pháp sư ngạc nhiên nói: “Chỉ có một chấm đen thôi sao? Có cả một tấm vải trắng lớn như thế, sao chả có ai nhìn thấy?” Người có Bát nhã xảo tuệ có thể đứng ở góc độ cởi mở để thưởng thức tha nhân, từ trong sự không hoàn mĩ có thể nhìn ra được nhiều ưu điểm, tự nhiên sẽ coi là một bộ phận sinh mệnh của chúng ta, tiếp nhận nó đồng thời khéo đối xử với nó, thì đời người càng thêm nhiều niềm vui khoát đạt.



Nhân sinh quan Bát nhã tự tại    



Đời người quả là có đến “tám chính phần mười chuyện bất như ý”? Bát nhã trí tuệ là bí kiệp xây xựng nên đời sống vui vẻ. Đã có Bát nhã, thì trong sinh mệnh có tính khả năng vô hạn, càng có dũng khí đối diện với càng nhiều thất thức trong tương lai, Bát nhã trí tuệ cần dùng thời gian và sự rèn luyện của một đời, không nên vì không có niềm tin rồi tự tìm cho mình một đóng lí do ngăn cản sự trưởng thành, đấy mới là đời sống của trí giả chân chính.  

Trần Tư Hạo 
Dịch tại Trà Vinh, ngày 14 tháng 1 năm 2012

(Dịch từ Lưỡng nguyệt san Văn hóa Phật giáo (佛教文化 – The Culture of Buddhim). Đơn vị chịu trách nhiệm chính: Sở Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo Trung Quốc. NXB. Thành phố Bắc Kinh, kì 3 năm 2003, tr.80-83.)
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, 3/2012
Đăng lại:  http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-161_4-15891_5-50_6-1_17-74_14-1_15-1/
0 comments
 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. Một chút cho đời - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger