Ảnh: Internet
Từ xưa đến nay, ở tất cả những nơi có tiếp xúc với đạo Phật,
Phật giáo đều lưu lại trong lịch sử kiến trúc nhiều báu vật nghệ thuật đủ để tự
hào trong lòng nhân thế. Ví dụ ở Trung Hoa có chùa Vĩnh Ninh xây dựng vào năm
thứ nhất niên hiệu Hi Bình (516-518) Hiếu
Minh Đế nhà Bắc Ngụy, được người đời ca tụng là “Thử tự tinh lệ, diêm phù sở
vô” (Chùa này tuyệt đẹp, chốn Diêm Phù không có); lại ví dụ hang đá Đôn Hoàng ở
Trung Quốc nổi tiếng thế giới, hang đá A-khương-đạt (Ajanta) ở Ấn
Độ, cung điện Bố-đạt-la (Potala) ở Tây Tạng, quần thể
kiến trúc Ngô-ca (Angkor Wat)
hay còn gọi là đền Đế Thiên ở Cam-pu-chia, tháp Bà-la (Borobudur) ở In-đô-nê-xi-a, tháp Đại Kim (Shwedagon) hay còn gọi là chùa Vàng ở Myanmar v.v…, có thể nói đều là những
bảo tàng nghệ thuật tổng hợp, nơi tập trung kiến trúc, điêu khắc, hội họa lại một
chỗ, cho nên trong lĩnh vực kiến trúc học, Phật giáo luôn có vị trí vô cùng
quan trọng.
Kiến trúc Phật giáo bao gồm tháp Phật, tự viện, hang đá… Những
kiến trúc này tất nhiên có mối quan hệ khá mật thiết đối với đời sống của con
người hiện đại; trong đó, tự viện là nổi bật nhất. Tự viện là nơi Tăng chúng tu
hành, là trung tâm gửi gắm tâm linh của tín đồ, cũng là nơi tuyệt vời nhất để
con người có thể tìm tới nghỉ ngơi, ngắm cảnh đẹp trong không khí an tịnh,
thanh nhàn. Trên hết, tự viện là đại diện của Phật giáo. Tự viện thể hiện cho sự
có mặt của Tam bảo Phật Pháp Tăng; có tự viện mới có thể truyền bá giáo nghĩa,
mới có thể duy trì chánh Pháp. Vì vậy, muốn Phật pháp hưng thịnh, thì cần phải
xây dựng chùa chiền, tăng chúng an cư.
Kiến trúc tự viện sớm nhất của Phật giáo, bắt nguồn từ thời đại
Đức Phật ở xứ Ấn Độ. Sau khi quốc vương xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) là Tần-bà-sa-la (Bimbisara) hiến tặng tinh xá Trúc- lâm (Venuvana) và trưởng giả Tu-đạt-đa (Sudatta, còn gọi là ngài Cấp Cô Độc
hay Anathapindika) hiến tặng tinh xá Kì-viên (Jetavana),
trở thành sự mở đầu cho kiến trúc tự viện. Sau này, tự viện nguy nga tráng lệ
được xây cất khắp nơi trên thế giới, từ thành thị đến thôn quê, từ rừng sâu đến
núi thẳm.
Phật giáo truyền đến Trung Quốc trong khoảng niên hiệu Vĩnh
Bình (58-75) dưới thời vua Minh Đế nhà Đông Hán, Phật
giáo do hai vị cao tăng là Ca-diếp-ma-đằng (Kasyapamatanga)
và Trúc-pháp-lan (Dharmaratna). Đạo sĩ Luận Đạo khơi dậy
lòng tin của Hán Minh Đế, khiến nhà vua hạ lệnh xây dựng tự viện Tỳ-kheo-ni (Bhiksuni) ở nội thành, và xây dựng
chùa Bạch Mã tại Lạc Dương, trở thành ngọn nguồn kiến trúc tự viện Phật giáo
Trung Quốc.
Giai
đoạn đầu kiến trúc Phật giáo Trung Quốc lấy tháp Phật làm chính, đến thời đại
Tùy Đường dần dần lấy điện Phật làm trung tâm, và phần lớn xây cất phỏng theo
kiểu mẫu hoàng cung. Các cung điện thời kỳ đầu hiện còn ở Trung Quốc khá ít ỏi,
tuy nhiên điện Phật lại có thể phản ánh hình ảnh cung điện về các phương diện
như kết cấu, tạo hình, quy hoạch, cấu tạo… , trở thành những bằng chứng rất có
giá trị trong lịch sử kiến trúc; đặc biệt là đã phát huy sự đóng góp không thể
phai mờ đối với sự bảo tồn văn hóa kiến trúc truyền thống, ví dụ kiến trúc kết
cầu bằng gỗ cổ xưa nhát hiện còn là chùa Phật Quang trên núi Ngũ Đài tỉnh Sơn
Tây, đã giữ lại được một cách hoàn chỉnh tinh hoa nghệ thuật kiến trúc nhà Đường;
hay như ở chùa Đường Chiêu Đề (Tōshōdai Temple) của Nhật Bản thì cũng có thể
tìm thấy diện mạo kiến trúc Trung Quốc trong thời kỳ đầu.
Ngoài
ra, kiến trúc hang đá tự viện được phân bố ở các khu vực Tây Bộ, Bắc Bộ Trung
Quốc, do vì sử dụng nham bàn hoặc đá núi khai đục mà thành, rất bền vững, kiên
cố, vì thế, phần lớn những kiến trúc này vẫn còn được bảo tồn cho tới nay, qua
đó cho thấy còn lưu giữ dấu tích lịch sử Phật giáo Ấn Độ truyền vào Trung Quốc,
có giá trị vô cùng. Bên trong những tự viện hang động đó có thiết đặt nhiều Phật
khám (am thờ Phật), Phật đàn (bàn thờ Phật), hoa cái (cái lọng), tượng đắp, cho
đến trang sức bằng phù điêu, bích họa… , và bên cạnh đó còn cất giữ các loại
kinh điển, tranh ảnh Phật, các đạo cụ pháp khí, cũng như các văn thư tự viện… ,
nghiễm nhiên là kho báu nghệ thuật Phật giáo, thực sự là bảo tàng văn hóa làm
rung động cả thế giới. Xét về mặt lịch sử học thuật và văn hóa, những di tích ấy
đều chiếm vị trí cực kỳ quan trọng.
Từ
kiến trúc, điêu khắc, cho đến vô số những tác phẩm bích họa của Phật giáo đã cho
thấy Phật giáo không chỉ có nghi thức trang nghiêm, giáo nghĩa rộng lớn sâu sắc,
mà còn có cả đặc chất của nghệ thuật. Trong con mắt của nhiều nhà nghệ thuật và
chuyên gia khảo cổ, kiến trúc của Phật giáo là sáng tác nghệ thuật phong phú,
đa dạng và mang đặc sắc mỹ cảm, quả thật là một tài sản lớn lao của giới kiến
trúc thế giới.
Tóm
lại, kiến trúc của Phật giáo không những có những thành tựu rất cao vời trong
nghệ thuật, mà còn vô hình trung cũng đã thúc đẩy sự lưu truyền của Phật pháp.
Căn cứ di tích được khai quật cho thấy: Tinh xá thời Phật còn tại thế, quy hoạch
dùng ánh sáng thông gió đều rất hoàn thiện, sự sắp xếp về liêu xá, phòng trọ,
nhà bếp, thương khố, buồng tắm, chỗ ở nhà bệnh, cho đến sự bố trí về ao sen,
bích họa, nhà kinh hành… , đều gồm có đầy đủ chức năng nghệ thuật và hoằng
pháp.
Tháp
Phật, tự viện hoặc kiến trúc hang đá, đều đại diện cho Phật giáo, trở thành
trung tâm tín ngưỡng của tín đồ. Từ xưa tới nay, tự viện trên hết có đủ chức
năng trường học, ví dụ: những quy hoạch trong tinh xá Kỳ viên Ấn Độ đều là giảng
đường; tự viện cổ xưa Trung Quốc đều có thiết đặt pháp đường, tàng kinh lâu,
chính là phòng học, thư viện của ngày nay. Thậm chí, bao năm qua Phật giáo từng
tổ chức không ít trường học miễn phí, tự viện cũng trở thành trường học. Ở
Trung Quốc, các bậc túc nho, danh tướng qua các triều đại như Lưu Hiệp[1],
Phạm Trọng Yêm[2], Vương An Thạch[3],
Lã Mông Chánh[4], Lương Thấu Minh[5]… ,
chính là những nhân vật từng khổ luyện, dùi mài kinh sử và đã thành công từ chốn
tự viện.
Tự
viện, thật sự giống như trạm xăng dầu của đời người, công ty tổng hợp của tâm
linh, là ngôi trường bồi dưỡng nhân cách thánh hiền, cũng là nơi giao hảo qua lại
của thiện hữu, và trên hết là chốn mát lành gột rửa mọi phiền tạp, u hoài. Kiến
trúc tự viện trong tương lai ngoài việc bảo lưu các cơ sở như Phật điện, khách
đường, trai đường, trà đường, nhà kho, còn đặc biệt nên trang bị thêm nhà hội
nghị, giảng đường, thiền đường, phòng học, nhà trò chuyện, trung tâm nghe nhìn,
trung tâm văn giáo (văn hóa giáo dục), phòng mỹ thuật, phòng triển lãm văn vật…
, để thông qua pháp vụ, văn giáo, nghệ thuật… mà tự viện có thể phát huy đầy đủ
công năng hoằng dương thánh giáo, giáo hóa xã hội, trở thành đạo tràng dung hòa
chung của tăng-tín tứ chúng,
trở thành ngôi trường giáo hóa xã hội, trở thành trung tâm hội nghị nghiên cứu
học thuật, trao đổi tri thức, làm cho tự viện mãi mãi trở thành là nơi quay về
của lòng người và là chỗ gửi gắm tinh thần.
(Nguồn: Phật giáo và thế tục, in
trong bộ sách Phật học giáo khoa thư
của Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 66 - 69)
Đăng trên: Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 173 (15/3/2013)
[1]
Lưu Hiệp (khoảng 465-520), tự
Ngạn Hòa, nguyên quán ở huyện Cử, Đông Quản (nay thuộc huyện Cử, thành phố Nhật
Chiếu, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà phê bình, lí luận văn học nhà Lương thời Nam
Triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Hiệp từ ‘sớm có chí hiếu học, nhà nghèo
không cưới vợ, nương nhờ cửa Phật, tinh thông kinh luận đạo Phật. Vào thời
Lương Vũ đế, từng giữ chức phụng triều thỉnh, đông cung thông sự xá nhân. Được
thái tử Chiêu Minh trọng dụng. Những năm cuối đời xuất gia đi tu, lấy tên là Tuệ
Địa. Vào cuối đời Nam Tề, viết cuốn "Văn tâm điêu long", là một tác
phẩm lớn về lí luận phê bình văn học cổ đại Trung Quốc.’ (Daitudien.net)
[2] Phạm
Trọng Yêm (989-1052), tự Hi Văn, người quận Ngô, nay
thuộc Tô Châu, Giang Tô. Là nhà văn, nhà giáo dục, tướng lĩnh và nhà chính trị
thời Bắc Tống, Trung Quốc.
[3]
Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn, thụy
Văn, người Lâm Xuyên, Bắc Tống, nay là Giang Tây. Ông là nhà chính trị, nhà
văn, nhà tư tưởng, nhà cải cách kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng sai lầm
trong việc xúi giục vua Tống xua quân xâm chiếm Đại Việt, chẳng những thua mà
còn bị Đại Việt đem quân phá tan ba châu Khâm, Liêm, Ung.
[4] Lã
Mông Chánh (944/946?-1011), tự Thánh Công. Người Lạc
Dương, Hà Nam.
Là một vị làm tể tướng nhiều năm xuất thân từ dân thường.
[5]
Lương Thấu Minh (1893-1988),
nguyên quán ở Quế Lâm, Quảng Tây, tên thật là Hoán Đỉnh, tự Thọ Minh, từng lấy
bút danh là Thọ Danh, Sấu Dân, về sau mới dùng tên Thấu Minh. Ông là nhà tư tưởng,
nhà triết học, nhà giáo dục nổi tiếng thời hiện đại, là một trong những người đại
diện thời kỳ đầu cho trường phái Nho học hiện đại, là nhà hoạt động xã hội, là
nhân sĩ dân chủ yêu nước.
Đăng nhận xét