Ảnh: Internet
Trên thực tế, sự tương hỗ qua lại giữa người với
người không đơn thuần chỉ có một kiểu. Ví dụ: một người có thể bao
gồm nhiều vai như vừa là bố, vừa là anh cả, vừa người bạn, vừa là quản lí… Như vậy, tính phức tạp của nó là
không thể tránh khỏi; lại thêm vào đó là bối cảnh thời không thay
đổi liên tục, tất nhiên sẽ tạo ra càng nhiều khốn cảnh cho người
thời nay. Vì vậy, làm thế nào ở trong hoàn cảnh khó khăn ấy mà vẫn
có thể sống được một cách tự tại viên dung, đấy mới là vấn đề quan
trọng nhất đối với người hiện đại.
Nền tảng luân lí quan Phật giáo
Phật Đà một đời hoàng pháp, chưa bao giờ xa rời
“mối quan tâm đối với con người”, cũng chính là những vấn đề trong
đời người chúng ta có thể sẽ vấp phải, hễ là vấn đề tình cảm, sự
nghiệp, gia đình…nhất nhất đều còn giữ lại phương pháp giải quyết,
cung cấp cho những ai có nguyện vọng siêu việt bản ngã có thể vận
dụng nó để hóa giải mọi vấn đề đang vướng mắc, việc thảo luận lấy
“con người làm trung tâm” của Phật giáo chính là nền tảng luân lí
quan Phật giáo.
Con người có đặc chất quần cư (sống tụ tập, bầy
nhóm), mặc dù cũng có lúc độc cư (sống một mình, đơn độc), nhưng không
phải vì vậy mà không mong muốn người khác chú ý đến sự tồn tại
của mình, tôn trọng mình, và cái mong muốn sau cùng là có thể sống
một đời an hòa lợi lạc. Mối quan hệ hỗ tương giữa người với người
trong cuộc sống ở đây, thông qua cách hiểu biết khác nhau của mỗi
người, sẽ có phương thức xử lí khác nhau, tuy vậy đôi lúc vẫn xuất
hiện tình trạng cư xử không hợp ý người. Phật Đà thông qua sự thuyết
minh nguyên lí duyên khởi, muốn con người học tập và nhận thực một
cách rõ ràng mọi chân tướng của thế gian, tiến xa hơn có thể có
được tư duy, lời nói, hành vi cử chỉ đúng đắn, để cải thiện những
điều bất như ý trong cuộc sống.
Phương pháp đầu tiên được đưa ra chính là Bát chính
đạo (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng,
chính tinh tấn, chính niệm, và chính định), nói rõ trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta nên đối đãi, chọn lựa và hành động như thế
nào cho đúng đắn, để dưỡng thành phép đối nhân xử thế một cách chân
thực nhất. Mặc dù, trong lịch sử phát triển của Phật giáo, từ Ấn
Độ- cội nguồn nguồn Phật giáo, cho đến các nơi trên thế giới, dù rằng
các chi nhánh của Phật giáo có một vài điểm khác nhau, nhưng nền
tảng của sự quan tâm đối với con người của Phật giáo thì trái lại
chưa hề thay đổi.
Tính nhu cầu thiện
hữu
Phật Đà nhắm vào các vấn đề của con người (Tập
thánh đế), mà nêu ra con đường giải quyết (Đạo thánh đế), để mỗi
một người theo đuổi đều có thể li khổ (Khổ thánh đế) đắc lạc (Diệt
thánh đế). Vì vậy, Phật giáo không phải là tôn giáo chỉ bảo con
người tự tìm kiếm khổ đau, mà là muốn thông qua học tập hiểu rõ pháp
duyên khởi thế gian rồi thực hành và chung sống với nhau một cách hòa
thuận vui vẻ và tự tại. Trong cuộc đời của con người, điều khiến cho
con người đau buồn nhất, không việc gì bằng người yêu thương nhất của
chúng ta lìa xa cõi nhân gian này, đấy là một loại khổ mang tên ái
biệt li (thương yêu nhau nhưng phải xa lìa nhau). Điều khiến người ta bi
phẫn căm uất, không việc gì bằng bị cha mẹ lừa dối, bị bạn tốt bán
rẻ, thậm chí đớn đau nhất là bị người đời xa lánh, ruồng bỏ, đấy
là một trong những nỗi âu lo lớn nhất của con người thời nay.
Từ nhỏ đến lớn, thường sợ nhất nghe thấy cha mẹ bán
rẻ chính mình, là lúc cha mẹ nói với hàng xóm láng giềng hoặc là những
bạn bè thân thích khác những lời trách móc như, rằng thành tích
chúng ta chưa đủ lí tưởng, hoặc trách móc những chuyện tương tự. Hoặc
là đã quyết định một chọn lựa nào đó, nhưng trái lại không được sự
ủng hộ của cha mẹ, bạn bè…, trong tâm lí học y học thường nói đến
tác dụng to lớn của sự ủng hộ của người thân đối với người bệnh,
nó thậm chí là nhân tố chính quyết định con người có muốn tiếp tục
sinh tồn nữa hay không. Ở đây nói rõ cần dùng thái độ luân lí thích
hợp, thỏa đáng để xử trí các mối quan hệ như cha mẹ, anh chị em,
đồng nghiệp, bạn bè…
Tiêu chuẩn của thiện
hữu
Với con người đang sinh sống trong thế gian này mà
nói, muốn lựa chọn thay đổi cha mẹ, anh em, chị em thực sự là điều
không thể, nhưng trái lại có thể bắt đầu cải thiện từ thái độ của
chúng ta. Phật Đà từng chỉ ra bạn bè có bốn loại: “Có bạn như hoa,
có bạn như cân, có bạn như núi, có bạn như đất. Thế nào gọi là như
hoa? Lúc tốt đẹp thì quây quần, khi suy sụp thì vứt bỏ; nếu giàu
sang thì thân cận, lúc nghèo khó thì quên mất, là bạn như hoa vậy.
Thế nào gọi là như cân? Vật nặng thì đầu cân chùng xuống, vật nhẹ
thì võng lên; có giúp đỡ thì kính trọng, không giúp đỡ thì lạnh
nhạt, là bạn như cân vậy. Thế nào gọi là như núi, ví như núi vàng, bất
kể loài chim thú nào một khi đến gần đó, đều hiển lộ ánh vàng lấp
lánh, loại bạn này cho dù là ai, lúc thân cận đều được thơm lây, có
thể “có phước cùng hưởng”, là bạn như núi vậy. Thế nào gọi là như
đất? Những thứ thải ra của chúng ta đều rơi xuống đất, lúc giận hờn
còn giẩm đạp lên nó, nhưng trăm thứ ngũ cốc lương thực đều phải sinh
trưởng lớn lên từ đất, trong đất cũng ẩn chứa nhiều tiền bạc châu
báu, loại bạn này hào phóng bố thì, quan tâm chúng nhân, đối xử với
mọi người một cách nồng hậu tử tế, không những có phước cùng hưởng
với người khác, mà còn cao hơn là dù cho người ta gièm pha nói xấu
họ, thì họ cũng có thể âm thầm lặng lẽ chịu đựng, bao dung như đất,
chính là bạn như đất vậy” (dẫn từ “Phật
Thuyết Bột Kinh Sao”).
Có một số người thì làm việc thiện là chỉ để khoe
khoang, muốn cả thiên hạ ai cũng biết đến mình, cho nên chỉ muốn thêu
hoa trên gấm, mà không muốn làm một người “đưa than trong tuyết” một
cách thầm lặng. Có một số người tiêu chuẩn giao thiếp qua lại với người
khác, là thiết lập trên của cải vật chất của đối phương. Lại có
một số người nguyên tắc thân cận với người khác, là xây dựng trên quyền
thế của đối phương. Tất cả những người này đều là chỉ có thể cùng
nhau hưởng lạc thú, mà không thể cùng nhau chia sớt khi đối phương gặp
hoạn nạn, tất nhiên sẽ tạo ra cho những người gặp phải hoạn nạn
hoặc những người gặp phải hoàn cảnh khó khăn có cảm giác bị bỏ
rơi, cô lập.
Đồng thể và
cộng sinh
Trên thực tế, lúc chúng ta cảm thấy cô độc, thì cần
phải phản tỉnh (xét lại mình) “trước khi muốn người ta đối xử với
mình như thế nào, thì đầu tiên tự hỏi mình đã đối xử với người ta
như thế nào trước”. Thử nghĩ lại xem, người mà chúng ta quen biết có
thể vẫn không đến một phần ngàn vạn dân số toàn cầu, cho nên nên biết
rằng sự quen biết nhau giữa người này với người kia, cũng là một
dạng duyên phận hiếm có và khó được, bất luận là trong hoạt động
thể thao thư giản, hay là trong cơ quan đơn vị, cùng với họ chung sống
và làm việc, hầu như đâu đâu cũng cần sự giúp đỡ lẫn nhau, các
phương tiện và của cải để phục vụ trong cuộc sống hàng ngày như ăn
uống, mang mặc, trú ngụ và đi lại…cũng đều cần mọi người cùng nhau
chung sức hợp tác, tương trợ.
Vì vậy, cần trân trọng thời giờ mỗi lúc gặp gỡ
nhau, cùng nhau nâng cao nội hàm và cái đẹp của sinh mệnh, thì sẽ có
mối quan hệ giống như Phật Đà với quảng đại chúng sinh, đấy chính
là tinh thần “tâm bao thái hư, hung hoài đại chúng” (tâm bao trùm thái
hư, lòng luôn nhớ nghĩ đại chúng) mà Phật Đà đã từng thuyết, nếu
được như thế thì đương nhiên sẽ không còn gặp thấy những người kiểu
như người dưng nước lã nữa, trong cuộc sống này chúng ta càng không
nên dùng thái độ căm thù cư xử toàn thế giới. Lấy tâm chân thành, tâm
bao dung để đối diện, học tập tiếp nhận duyên phận, tạo ra duyên phận
và cải thiện duyên phận. Cái gọi là “tự tịnh kì ý” trong Phật môn,
chính là nhấn mạnh tính “tự giác” của con người, giác sát thái độ
và hành vi của mình khi đối diện với người, việc và vật. Bạn bè
là như thế, trong công việc cũng là như thế. Bởi vì trên chức trường,
việc bổ trợ phối hợp làm việc nhóm với nhau đã là một nửa của
thành công, mỗi một người đều cần phải cố gắng hoàn thành bổn phận
của chính mình, tức có thể hiểu biết để tôn trọng và bao dung người
khác.
Truy vấn giá
trị sinh mệnh
Giữa lúc đêm sâu người vắng, có thể từng nghĩ qua
giá trị sinh mệnh của bản thân ở đâu? Đây là một vấn đề định nghĩa
ý nghĩa tầng sâu sinh mệnh tự thân. Từ ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành, con người vì giá trị quan trong cách nhìn cách nghĩ của chúng
ta mà dốc toàn tâm toàn lực vào công việc, cho đến lúc đậy nắp quan
tài lại rồi mới luận định, lúc ấy thì chúng ta còn lại được mấy
phần giá trị? Điều này đề cập đến việc chúng ta nên định nghĩa giá
trị bản thân như thế nào. Trên cõi đời này có hay không giá trị đúng
đắn để có thể truy tầm? Con người sống vì cái gì? Rốt cuộc có hay
không có thể nâng cao giá trị tự thân để có thể sống một cách vui
vẻ tự tại?
Định nghĩa giá
trị sinh mệnh
“Ta là ai?” Một người mất mát hồi tưởng có thể sẽ
hỏi như thế, đối với một đứa trẻ đang trong giai đoạn trưởng thành
càng không ngừng phản vấn “ta là ai?” Trên thực tế, đời người chúng
ta ai cũng đang ra sức tìm kiếm định vị trong giá trị sinh mệnh tự
thân. Từ nhỏ, chúng ta được xây dựng định vị của chúng ta từ trong
luân lí gia đình, càng trưởng thành, mức độ tiếp xúc công việc cũng
như phạm vi tìm tòi học hỏi trở nên rộng hơn. Từ trong các mối quan
hệ giao tế và mở rộng ấy, giá trị sinh mệnh tự thân của chúng ta
không ngừng thay đổi và được đánh giá lại. Có một vài người mong
đợi tìm được giá trị từ trong sự khen ngợi và tiếng vỗ tay của
người khác, hoặc là tìm kiếm thành quả trong công việc, thậm chí
tiền tiết kiệm để ở trong ngân hàng hay phòng ốc, điền sản, giấy
khen, huân chương cho đến việc ẩm thực mang mặc biểu trưng giá trị của
bản thân. Nhưng rốt cuộc thì giá trị bản thân như thế nào mới có
thể khiến cho người khác cướp không được, trộm không xong, đánh không
gảy, ngược lại có thể tăng trưởng giá trị bản thân chúng ta, xa hơn
là tăng thêm sự tự tại trong cuộc sống?
Đặt sai giá trị
sinh mệnh
Một vật cổ vô giá, mọi người đều muốn thu thập cất
giữ. Nhưng, nếu gặp thời kì chiến tranh loạn lạc, thì ngay tính mạng
bản thân và gia đình còn không thể bảo vệ nỗi, làm sao có thể lấy tiền
bạc để đi mua đồ cổ? Có người năm trước thu nhập được một nghìn
vạn, nhưng vẫn vì thu nhập mỗi năm một vạn đồng mà liều mạng, lúc
qua đời có thể mang theo được bao nhiêu thứ đáng giá. Cuối cùng cái
gì mới là giá trị có thể nắm chắc trong tầm tay? Những thứ ở trong
thế gian này, thứ nào có thể vĩnh hằng bất biến? Thịnh hành rồi
cũng sẽ thoái trào, thị trường chứng khoán có thể sụp đổ, ngoại
tệ có thể sụt giảm, cũng chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư trong chớp
mặt đột nhiên chỉ còn lại hai bàn tay trắng, nhảy lầu tự vận. Họ
đều đã quá xem nhẹ giá trị sinh mệnh tiềm tại cần được triển khai
mở rộng, giá trị này không phải do từ bên ngoài mang lại, càng không
thể từ trên trời rơi xuống, đương nhiên cũng không thể xây dựng trong
tiếng vỗ tay hoặc reo hò nào. Chỉ cần có niềm tin, chịu nỗ lực,
thì giá trị sinh mệnh có thể duy trì ở điểm cao nhất. Lúc bạn mất
đi tất cả giá trị ngoại thân, thì chớ quên rằng bạn còn có giá trị
sinh mệnh tiềm ẩn đang nằm trong tầm tay.
Giá trị chân
chính của sinh mệnh
Cha đẻ phục hưng Phật giáo Ấn Độ, Tiến sĩ Bhimrao
Ramji Ambedkar (14/4/1891-6/12/1956) từng nói: “Mặc dù bạn nghèo đến nỗi chỉ còn lại một chiếc áo, thì
bạn cũng nên giặt nó cho sạch sẽ, để cho khi mình mặc vào nhìn thấy
vẻ tôn nghiêm”. Trên thực tế, những người bình thường chỉ chú ý
đến mình đã đánh mất đi bao nhiêu thứ thuộc về bản thân, cũng chỉ
chú ý đến “người khác có, tại sao chúng ta lại không có?” Đấy là
một loại mong muốn mãnh liệt rất bình đẳng trên bề mặt bên ngoài, tất
nhiên sẽ không có cách nào vượt khỏi những suy nghĩ giành giật, tranh
đoạt như “phi thử tức bỉ”, kết quả vẫn cứ rơi vào vòng gông cùm
xiềng xích toan tính so đo, như thế sẽ sống trọn một đời sầu ưu khổ
não, mãi mãi tìm không được ý nghĩa sinh mệnh tồn tại tự thân.
Trên thực tế, từ trong sâu thẳm cõi lòng của mỗi
một người, bao giờ cũng có cảm giác tự ti, cảm giác mình hơn hẳn
người khác ở một vài phương diện nào đó, thường hay không chấp nhận cái
tốt của người khác (vì sợ họ hơn mình), càng không chịu chấp nhận
sự bất đồng ý kiến giữa ta với người, đã quên mất cần phải quý
trọng những gì hiện hữu của mình. Là bởi vì ở đây chúng ta còn
chưa biết học tập để thưởng thức mỗi một cá thể duy nhất, đã quên
nói với chính mình phải học tập đối đãi bình đẳng với đại chúng
hoặc đi cư xử tất cả việc nhân gian xung quanh một cách ôn hòa nhã
nhặn, nếu thật sự có thể cư xử hết thảy người và vật như thế, thì
cảm giác tự ti hoặc cảm giác tự cho mình hơn hẳn người khác sẽ đều
có thể tiêu tan, sóng lòng cuộn trào dữ dội sẽ trở lại lặng yên.
Lúc này, việc ăn- mặc- ở- đi lại, chúng ta sẽ có cảm giác như nhau, tức
không vì mãn hán toàn tịch hay cơm thường gia đình mà khởi nên tâm
niệm so sánh, trái lại sẽ vui vẻ hưởng thụ trọn bữa cơm một cách
ngon lành. Trong cuộc sống, sẽ không còn truy cầu nguy nga lộng lẫy,
chỉ có sự quan tâm một cách chăm chút tỉ mỉ đến sinh mệnh, mới có
thể thể ngộ giá trị chân chính của sinh mệnh.
Tính khả năng
của cuộc sống tự chủ
Danh và lợi từng là sợi dây trói buộc của bao nhiêu
người, từng là tảng đá lớn không thể để xuống được trong lòng của
bao nhiêu người. Bởi vì, chúng ta từ hồi còn bé thơ đã được dạy dỗ
cần phải tranh giành, không chịu thua kém ai, cần phải cất đầu dậy,
dẫn đầu hay nổi trội, nhưng trong số chúng ta mấy ai vượt trội hơn
người hoặc có thể đứng đầu lãnh đạo, chúng ta vẫn chỉ là kẻ bình
thường trong muôn nghìn chúng sinh, học tập thưởng thức một chút về
sự “không bình thường trong bình thường” của mình, chúng ta đều là sự
kì vọng duy nhất trong con mắt của cha mẹ, hãy thầm lặng cho đi một
chỗ để xoay sở. Lúc có một vài người hiểu được tính tất yếu hoàn
thành mục tiêu, thì họ sẽ dốc toàn sức vào công việc, năng lực tiềm
ẩn bên trong của chúng ta và đặc chất “không cho người biết” cuối
cùng sẽ được triển khai và mở rộng một cách đầy đủ nhất. Thực ra,
thắng thua chỉ trong một niệm, hãy thử xem bản thân từ khía cạnh nào
để tự mình đánh giá mà thôi.
Sự hoàn mĩ
trong bất hoàn mĩ
Sinh mệnh của mỗi người đều như là một hình cầu bị
thiếu đi một góc cạnh, nêu không gặp khổ nạn chúng ta sẽ cống cao
ngã mạn, nếu không trải qua bể dâu thì không kích thích được từ tâm
bi nguyện tâm, thể nhận ra được rằng đời người có bất hoàn mĩ, mới
có thể manh nha truy tìm nguyên động lực viên dung chân thiện mĩ.
Trong cuộc sống hàng ngày của người bình thường, bao
giờ “những thứ cần thì cũng không
nhiều, nhưng những thứ muốn thì
trái lại rất nhiều”. Kết quả chúng ta đã vô tình đánh mất đi rất
nhiều thứ. Đời người Bát nhã sẽ không nhớ nghĩ quá khứ, càng không
ảo tưởng tương lai, chỉ biết trân trọng những gì hiện có; tuy vậy,
làm người chúng ta thực sự không một lần mơ ước thực hiện điều gì
đó tốt đẹp trong tương lai chăng? Đương nhiên là có, nhưng ước mơ ấy
tất nhiên sẽ không hiện hữu những so đo toan tính không cần thiết.
Có một vị Pháp sư nhỏ một giọt mực trên tấm vải
trắng, rồi hỏi các đệ tử: “Đây là cái gì?” Các đệ tử dị khẩu
đồng thanh đáp: “Một chấm đen!” Pháp sư ngạc nhiên nói: “Chỉ có một
chấm đen thôi sao? Có cả một tấm vải trắng lớn như thế, sao chả có
ai nhìn thấy?” Người có Bát nhã xảo tuệ có thể đứng ở góc độ cởi
mở để thưởng thức tha nhân, từ trong sự không hoàn mĩ có thể nhìn ra
được nhiều ưu điểm, tự nhiên sẽ coi là một bộ phận sinh mệnh của
chúng ta, tiếp nhận nó đồng thời khéo đối xử với nó, thì đời
người càng thêm nhiều niềm vui khoát đạt.
Nhân sinh quan Bát
nhã tự tại
Đời người quả là có đến “tám chính phần mười
chuyện bất như ý”? Bát nhã trí tuệ là bí kiệp xây xựng nên đời
sống vui vẻ. Đã có Bát nhã, thì trong sinh mệnh có tính khả năng vô
hạn, càng có dũng khí đối diện với càng nhiều thất thức trong tương
lai, Bát nhã trí tuệ cần dùng thời gian và sự rèn luyện của một
đời, không nên vì không có niềm tin rồi tự tìm cho mình một đóng lí
do ngăn cản sự trưởng thành, đấy mới là đời sống của trí giả chân
chính.
Trần Tư Hạo
Dịch tại Trà Vinh, ngày 14 tháng 1 năm 2012
(Dịch từ Lưỡng nguyệt san Văn hóa Phật giáo (佛教文化 – The Culture of
Buddhim). Đơn vị
chịu trách nhiệm chính: Sở Nghiên cứu Văn hóa Phật giáo Trung Quốc. NXB.
Thành phố Bắc Kinh, kì 3 năm 2003, tr.80-83.)
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ, số 192, 3/2012
Đăng lại: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-161_4-15891_5-50_6-1_17-74_14-1_15-1/
Đăng nhận xét