Luận quan điểm 'Sắc' trong Thành thật luận - Phần I

Lời nói đầu
Tác phẩm Thành thật luận (Luận thành thật), do Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) người Ấn Độ biên soạn. Vào hậu Tần, năm 411 - 412 Tây Nguyên, Cưu Ma La Thập (Kumārajīva, 344 - 413 Tây lịch(1)) dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ. Luận này đặt tên là "Thành thật", điều này muốn thành lập sự thật của nó, ý là chỉ "Tứ đế". Trong phẩm Sắc tướng thứ 36 thuộc "Luận sắc" của "Khổ đế tụ"(2), có đoạn hỏi: "Trước ông nói sẽ nói Luận thành thật. Nay phải nói cái gì là thật? Đáp rằng: Tứ đế là thật, gọi là khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ và con đường diệt khổ. Ngũ thọ ấm là khổ, các nghiệp và phiền não là nguyên nhân của khổ, khổ tận là khổ diệt, Bát Thánh đạo là con đường diệt khổ…" (Nhữ tiên ngôn đương thuyết Thành thật luận, kim đương thuyết hà giả vi thật? Đáp bạch: Thật danh Tứ đế, vị khổ, khổ nhân, khổ diệt, khổ diệt đạo. Ngũ thọ ấm thị khổ, chư nghiệp cập phiền não thị khổ nhân, khổ tận thị khổ diệt, Bát Thánh đạo thị khổ diệt đạo…). Tác giả Ha Lê Bạt Ma đề xướng "nhân pháp nhị không" nhằm phản đối lý luận của Nhất thiết hữu bộ tiểu thừa, xiển dương chân lý Tứ đế là khổ, tập, diệt và đạo. Tương truyền, Ha Lê Bạt Ma vốn là đệ tử của luận sư Cưu Ma La Đa nổi tiếng thuộc thuyết Nhất thiết hữu bộ. Ban đầu, ông tin tưởng học thuyết của luận sư này, sau đó không hài lòng, cho rằng học thuyết này không có khả năng giải thoát triệt để khổ đau, câu nệ danh tướng. Cuối cùng, ông đến Hoa Thị thành, theo Đa văn bộ học tập, tiếp xúc tư tưởng đại thừa. Thời gian này, tác giả bình lượng Ngũ bộ (luật), khảo hạch các luận, từ đó soạn ra luận này.
Bộ Luận sau khi dịch sang Hán ngữ, Đàm Ảnh, đệ tử của La Thập thấy kết cấu của nó rời rạc, bài và chương chưa phân chia, các đoạn lớn không rõ ràng. Thế là, căn cứ bản dịch, dựa vào văn nghĩa, Đàm Ảnh phân loại, chỉnh lý lại, chia làm năm nhóm (ngũ tụ), tức năm bộ phận, tổng cộng có hai trăm lẻ hai phẩm. "Phát tụ" là lời tựa, chủ yếu trình bày sơ lược về Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo (Tam bảo), lý do viết luận, chủng loại luận môn, Tứ đế,… Bốn nhóm (tứ tụ) còn lại, tức Tứ đế là khổ, tập, diệt và đạo. Khổ đế, bản chất của khổ chung quy lại là ngũ thọ ấm (luận thuyết "khổ đế" bao gồm Sắc luận, Thọ luận, Tưởng luận, Hành luận và Thức luận, tức ngũ ấm); quy kết "tập đế" thành "nghiệp" và "phiền não"; đặt định "diệt đế" là "tam tâm" như giả danh tâm, thật pháp tâm và không tâm(3); "Đạo đế" quy kết thành "chánh định" và "chánh trí". Đặc điểm chủ yếu toàn bộ Luận là nhằm vào thuyết "ngã không, pháp hữu" của thuyết Nhất thiết hữu bộ, đề ra tư tưởng "nhân pháp nhị không". Cho rằng, pháp không thực thể, chỉ có giả danh. Ngay cả tứ đại hoặc thân thể, cho đến sắc pháp cấu thành của nó cũng đều là giả danh. Tuy nhiên, chủ trương không chỉ muốn phá trừ nhân ngã (cái ngã của con người), diệt "giả danh tâm", mà còn giả pháp, thật pháp, nhất luật phải phá dỡ, đấy chính là pháp vô ngã, "diệt pháp tâm"…
Như vậy, khái quát mà nói, nội dung Luận thành thật, bàn đến rất nhiều vấn đề. Thực ra, đối với những vấn đề này, truyền thống Phật giáo, từ rất sớm đã từng đề cập qua, nhưng người viết cho rằng, kiến giải của Ha Lê Bạt Ma, tác giả Luận thành thật đã chứng tỏ cho thấy có cá tính, đặc sắc rất riêng của mình. Do vì, phạm vi bài viết, nay chỉ xoay quanh việc khảo sát phần ‘sắc’ trong "Luận sắc" của luận thuyết "Khổ đế tụ" (tổng gồm hai mươi bốn phẩm).
Quan điểm ‘sắc’ trong Thành thật luận
Quan niệm phổ biến của Phật giáo cho rằng, tất cả vạn sự vạn vật trên thế gian này, bao gồm các hiện tượng vật chất và tinh thần, đều do các nhân tố cơ bản nhất hòa hợp tương tụ mà thành, vì vậy mới gọi là "ấm", hoặc "uẩn". Nhưng, chính là vì hết thảy sự vật đều do các nhân tố cơ bản hòa hợp mà thành, cho nên bản thân sự vật vốn không có tính quy định của bản chất tự thân, vì vậy mà chúng trở nên hư huyễn, không thật. Ví dụ, Phật giáo cho rằng, tất cả sắc pháp trên thế gian này, tức mọi thứ có hình tướng, vật cản đều do bốn nguyên tố vật chất cơ bản là đất, nước, lửa và gió cấu thành. Cũng như, cái nhà vậy, là do các bộ phận gạch, ngói, đòn tay, cửa… cấu thành, tách rời chúng thì cái nhà ấy không thể tồn tại. Cái nhà là vậy, mà các sự vật khác cũng là như vậy. Lại nhìn từ góc độ khác, sắc pháp do nhân duyên hòa hợp mà có, chúng mãi không ngừng vận động biến hóa trong quy luật tương sinh tương diệt, trước diệt sau sinh, tương tục không dứt, không ngừng thể hiện sinh khởi, không ngừng tích tụ tương sinh.
Sắc là như vậy, tâm cũng là như vậy, do đó mà dệt nên thế giới vạn pháp, tức vạn sự vạn vật trên thế giới. Vì vậy, có thể nói "ngũ ấm" là nguyên nhân cơ bản cấu thành tất cả sự vật.
Vạn vật trên thế giới là như vậy, xem chúng sinh sinh sống trong thế giới này, cũng giống hệt như vậy, không khác. Phật giáo cho rằng, bản thân của con người là do "ngũ ấm" hòa hợp mà thành. Trong Luận thuật Phật giáo Việt Nam, "ngũ ấm" có lúc cũng gọi là "ngũ uẩn", "ngũ chúng"… "Ngũ ấm" cụ thể chỉ:
1) Sắc ấm: Chỉ tất cả hiện tượng vật chất trong thế gian này.
2) Thọ ấm: Tức cảm giác mà chúng sinh tiếp xúc với sự vật ngoại giới thông qua cảm quan mà sinh ra.
3) Tưởng ấm: Thông qua tri giác và biểu tượng tiếp xúc sự vật ngoại giới mà sinh ra nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị,...
4) Hành ấm: Thông qua ý chí hành động đối với nhận thức các sự vật ngoại giới mà sinh ra. Nói một cách dễ hiểu, là những hoạt động tâm lý như phê bình, đánh giá, yêu, ghét,…
5) Thức ấm: Chủ yếu chỉ tác dụng ý thức của con người. Ý thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Từ quan niệm "ngũ ấm" trên, chúng ta có thể đơn giản quy thành hai loại: một là "thân" hoặc vật chất; hai là "tâm" hoặc tinh thần.
Theo cách nói của Luận thành thật, con người chỉ là phức hợp thể ngũ ấm tập hợp mà thành, mà bản chất của nó là "không" (con người do ngũ ấm hợp thành là không, ngũ ấm hợp thành con người cũng là không). Trong phẩm Vô ngã thứ 34, có đoạn nói: "Vì ngũ ấm nên có nhiều danh xưng. Gọi là ngã, chúng sinh, nhân, thiên…vô lượng danh từ. Đều do vì có ngũ ấm." (Nhân ngũ ấm cố hữu chủng chủng danh. Vị ngã chúng sinh nhân thiên đẳng như thị vô lượng danh tự. Giai nhân ngũ ấm hữu)(4). Đoạn này nói đến "ngã", "chúng sinh"… đều là do ngũ ấm hợp thành mà biến thành vô lượng danh xưng, nhưng con người trên thế gian này đại đa số đều nhận thức sai lầm rằng các danh xưng ấy đều là thực tại, lấy giả danh làm chân danh, đắm chìm trong cái đẹp phù hoa không thực hữu, cho nên mới tạo nên luân hồi sinh tử. Dựa vào điều này, Luận thành thật phán định rằng "khổ đế là tam giới(5) vậy" (khổ đế giả tam giới dã), chính là nói tam giới đều là khổ đau. Ha Lê Bạt Ma lấy sự dung chứa và chấp thọ ngũ ấm của người ta, xác định bản chất của "khổ đế" trong "tứ đế"; tương ứng với điều này, "diệt khổ" hạt nhân của "diệt đế", hiển nhiên cũng chính là ngũ thọ ấm diệt.
"Ngũ ấm không", hoặc "ngũ uẩn giai không", vốn là chủ trương phổ biến của Phật giáo đại thừa. Luận thành thật, cố nhiên đã tiếp nhận quan điểm này, chỉ có điều, đến bây giờ, các học giả chưa thể quy nó thuộc về bộ phái nào của Phật giáo, vì các tư liệu liên quan rất ít. Thêm vào đó, bản gốc Phạn ngữ cũng không còn nữa(6). Nếu như, chúng ta kết luận, Luận thành thật là thuộc tiểu thừa, thì phải nói đấy là một cái nhìn mới, quan điểm mới. Bất luận thế nào, người viết cũng cảm thấy, các luận thuyết của nó bám sát tư tưởng Đại thừa Phật giáo.
Về phạm trù "sắc", các bộ phái Đại thừa, Tiểu thừa có sự giải thích không giống nhau; sự lý giải của tác giả Luận thành thật đã biểu hiện tính đặc sắc của nó. Bây giờ, chúng ta sẽ tuần tự tìm hiểu cụ thể.
1. "Tứ đại" chuyển đổi thành "tứ trần" - Duy vật luận chuyển sang trực giác luận

Ý nghĩa sắc ấm (hoặc gọi là sắc pháp, gọi tắt là sắc) mà Phật giáo truyền thống đề cập gần như không giống với màu sắc, sắc trong mỹ sắc bình thường mà chúng ta thường nói. Sắc ấm trong Phật giáo, phiếm chỉ tất cả sự vật hiện tượng có vật cản, rất có thể tương đương với hiện tượng vật chất trong triết học hiện đại từng nhắc đến. Theo giáo nghĩa Phật giáo, "sắc" có hai loại đặc trưng cơ bản là "biến" (thay đổi) và "ngại" (ngăn cản).
Gọi là "biến", chính là chỉ tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian này đều ở trong quá trình vận động thay đổi không ngừng nghỉ. Vì vậy, bất cứ sự vật nào cũng đều không phải là cố định, bất biến, đều không phải là vĩnh hằng, mãi mãi. Mạng sống của con người là như thế, hết thảy sự vật cũng là như thế. Cho dù cả vũ trụ, cũng đều nằm trong quá trình vận động xoay vòng thành, trụ, hoại, không, đấy chính là "biến".
"Ngại" là chỉ vật cản, tức chỉ tất cả các pháp đều là những vật thể có hình chất, có thể ngăn cản nhau. Có vật cản, thì chắc chắn sẽ chiếm hữu vị trí nhất định trong không gian. Ví dụ, chúng ta nói một cái bàn xếp rất nhiều thứ, chính là bởi vì, những "thứ" này là có chất cản trở, đã chiếm cứ một không gian nhất định trên mặt bàn, cho nên mới có thể được "chất đống/xếp đống". Từ điều này có thể nhìn thấy "biến" và "ngại" là hai tính chất cơ bản của sắc pháp.
Tất cả vật thể do sắc pháp có những biến ngại tương tụ mà hình thành, tức là ngũ ấm. Theo cách nói của nhà Phật, một cách khái quát rằng, sắc ấm chính là tất cả sự vật do tứ đại là đất, nước, lửa và gió tập hợp cấu thành. Nhà Phật cho rằng tất cả sự vật trên thế gian này đều do bốn nguyên tố cơ bản là đất, nước, gió và lửa tương tụ cấu thành. Trong đó, "đất" lấy "kiên" (vững chắc) làm tính năng; "thủy" lấy "thấp" (ẩm ướt) làm tính năng; "hỏa" lấy "noãn" (ấm áp) làm tính năng; "phong" lấy "động" (chuyển động) làm tính năng. Đương nhiên, tứ đại như đất, nước, lửa và gió chỉ là nguyên tố cơ bản có thể tạo nên tất cả sự vật trên thế gian này, vốn không phải chỉ cho những sự vật cụ thể như đất, nước, lửa và gió mà trong cuộc sống bình thường hàng ngày của chúng ta có thể nhìn thấy và tiếp xúc được, điều này vẫn là có sự khác biệt. Những cái cụ thể như đất đai, dòng nước, ngọn lửa, gió lớn,… mà thường ngày chúng ta nhìn thấy, gặp được, đều là tướng mạo của các sự vật cụ thể do tứ đại cấu thành, gọi là "sở tạo sắc", nhưng coi tứ đại thuộc nguyên tố cơ bản, là bởi vì có khả năng cấu thành tất cả sự vật, cho nên gọi là "năng tạo sắc"(7).
Như vậy, cả thế giới vật chất, có thể dùng từ "tứ đại" và cụm từ "tứ đại sở thành" như thế để khái quát. Lấy tiểu thừa hữu bộ đại diện cho rằng "tứ đại sở thành" thuộc về phục hợp vật (vật tập hợp), cho nên chúng là giả, là không; "tứ đại" chính là đơn vị đầu tiên, là nguyên nhân sau cùng, không thể phá vỡ, phân tách, cho nên là chân, là thật.

Luận thành thật nhằm vào học thuyết hữu bộ trên đây, đưa ra "sắc ấm" một định nghĩa khá mới mẻ. Trong phẩm Sắc tướng thứ 36, có nói: "Sắc ấm là tứ đại và tứ đại sở nhân thành pháp, cũng vì tứ đại sở thành pháp, gọi chung là sắc. Tứ đại là đất, nước, lửa và gió. Vì, sắc, hương, vị và xúc, cho nên thành tứ đại. Vì vậy, tứ đại tạo nên ngũ căn như nhãn căn,…" (Sắc ấm giả. Vị tứ đại cập tứ đại sở nhân thành pháp. Diệc nhân tứ đại sở thành pháp. Tổng danh vị sắc. Tứ đại giả. Địa thủy hỏa phong. Nhân sắc hương vị xúc cố. Thành tứ đại. Nhân thử tứ đại thành nhãn đẳng ngũ căn)(8). "Tứ đại" và "nhân tứ đại sở thành pháp" là một quan điểm lâu đời trong truyền thống Phật giáo; nhưng, "tứ đại sở nhân thành pháp", chính là thuyết mới của Ha Lê Bạt Ma. Ông cho rằng, "tứ đại" không phải là cái nhân sau cùng của sắc thân/ thế giới vật chất, bởi vì "tứ đại" cũng là kết quả của nhiều yếu tố, vẫn còn tồn tại nhân sau cùng hình thành "tứ đại". Những cái cụ thể này chính là bốn loại đặc trưng của sự vật khách quan (ngoại cảnh) gồm sắc, hương, vị và xúc. "Sắc" ở đây là chỉ cho "nhãn thức sở duyên", hương, vị và xúc thì phân biệt với các đối tượng cảm giác là tỷ, thiệt và thân. Cơ quan cảm giác (cảm quan) của con người vốn có năm, thuật ngữ Phật giáo gọi là "ngũ căn" (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân). Đối tượng của nó, thuật ngữ Phật giáo gọi là "ngũ trần" (sắc, thanh, hương, vị và xúc). Có thể làm nhân cho "tứ đại", chỉ có "tứ trần". Ở đây, không tính đến "thanh trần", là bởi vì lúc giữa vật với vật tiếp xúc nhau, mới có thể phát ra âm thanh, nó đặc biệt không có tính tồn tại độc lập của chính nó. Xem ra, bản tính của nó là không thực hữu, chính vì vậy, ở đây không liệt nó vào nguyên nhân tối hậu tạo nên vạn pháp.
Có thể nói, "tứ đại" là hiện tượng vật chất bên ngoài cảm giác của con người, "tứ đại" không thể tách rời đối tượng cảm giác của năng lực hoạt động cảm giác của con người. Nếu như, chúng ta lấy "tứ đại" để giải thích cho nguyên nhân hình thành thế giới vật chất, chính là giống như chúng ta lấy vật chất đi giải thích hiện tượng vật chất. Điều này, là thuộc về nguyên tắc duy vật luận; còn, nếu như chúng ta lấy "tứ trần" để giải thích nguyên nhân hình thành của "tứ đại", chính là giống như lấy hiện tượng vật chất quy kết một cách tổng quát sau cùng vẫn là thuộc cảm giác của con người. Điều này, là thuộc về lý luận duy tâm luận. Như vậy, nguyên tố của vật chất sẽ biến thành yếu tố của cảm giác. Nói một cách đơn giản, đối tượng của cảm giác không thể tách rời sự tồn tại của cảm giác, vật chất sẽ biến thành tập hợp của cảm giác.
Trên cơ bản, nội hàm của ‘sắc’ trong Thành thật luận đã không hề có sự thay đổi, chỉ có điều, ở đây tác giả an trí "tứ trần" cho "sắc" làm căn cứ khả năng tồn tại của nó. Nghĩa là, sự tồn tại của vật chất chính là do sự hiện hữu của cảm giác. Thông qua chương "Sắc luận" trong quyển 03 của Thành thật luận này, chúng ta có thể nhìn thấy, tác giả đã có một lý niệm (khái niệm lý luận) mới mẻ. Ông khẳng định: 1- "Tứ đại" cố nhiên không phải là nhân tố sau cùng của "sắc", mà bản thân nó, cũng có các nhân tố khác. Như vậy, chúng ta có thể nói, "tứ đại" hoặc vạn sự vạn vật đều là "giả danh", không phải thực hữu. Cũng trong quyển 03, phẩm Tứ đại giả danh thứ 38, nói: "Tứ đại là giả danh. Nghĩa này chưa thành lập. Có người nói tứ đại là thực hữu. Đáp rằng, tứ đại do giả danh mà có… nên biết các đại là giả danh có. Lại nhân sở thành pháp, đều là giả danh, không thực hữu vậy. Như trong kệ nói, các yếu tố như bánh xe,… do vì hòa hợp, nên mới gọi là xe. Ngũ uẩn do vì hòa hợp, nên mới gọi là con người." (Tứ đại thị giả danh. Thử nghĩa vị lập. Hữu nhân ngôn tứ đại thị thực hữu. Đáp viết. Tứ đại giả danh cố hữu…Cố tri chư đại thị giả danh hữu. Hựu nhân sở thành pháp. Giai thị giả danh. Vô thực hữu dã. Như kệ trung thuyết. Luân đẳng hòa hợp cố danh vi xa. Ngũ ấm hòa hợp cố danh vi nhân). Trong đoạn suy luận này của tác giả, nói rõ "xe", "con người" hoặc hết thảy hiện tượng sự vật trên thế gian này đều là do nhiều nguyên nhân hòa hợp mà thành. Cho nên, bản thân của nó đều là vô thực hữu vậy; 2- Những thứ gọi là "thực hữu" hay "thực pháp", đòi hỏi bản thân của nó phải có tự tính. Nói cách khác, một trong những đặc trưng của nó, phải là không có tính sai biệt nội tại. Nhưng, "nhân sở thành pháp" ở đây, chúng ta có thể phân tách được. Đất, nước, lửa và gió, bốn loại lớn này không những có thể bị coi là "dị kiến" hoặc "dị thị", mà chúng còn có nhiều biểu hiện phức tạp, ví dụ như trong quyển 03, cùng phẩm này, nói: "Người đời nói thấy đất, ngửi đất, chạm đất, mùi đất. Trong kinh lại nói nếu đất có thể thấy, có thể va chạm…Con người lại chỉ ra sắc đất, hương đất, mùi đất, chạm đất. Trong thật pháp, không thể chỉ ra gì khác." (Thế nhân thuyết kiến địa khứu địa xúc địa vị địa. Hựu kinh trung thuyết như địa khả kiến hữu xúc…Hựu nhân thị địa sắc địa hương địa vị địa xúc. Thực pháp hữu trung. Bất khả dị thị). Cho nên, "tứ đại" đều là giả, là bởi vì chúng có sai biệt nội tại, không có tự tính.
Phủ định "tứ đại" là thực hữu, có lẽ có nhiều lý do, trong đó chủ yếu tác giả muốn phê phán học thuyết hữu bộ. Học thuyết hữu bộ cho rằng "tứ đại" có tác dụng khả tri, tự tướng bất biến, cho nên thực hữu.
Trong phẩm Tứ đại thực hữu thứ 39, nói: "Trong A Tỳ Đàm nói, tướng vững chắc là địa chủng (loại đất), tướng ẩm ướt là thủy chủng (loại nước), tướng nóng là hỏa chủng (loại lửa), tướng động là phong chủng (loại gió), cho nên tứ đại là thực hữu". (A Tỳ Đàm trung thuyết. Kiên tướng thị địa chủng. Thấp tướng thị thủy chủng. Nhiệt tướng thị hỏa chủng. Động tướng thị phong chủng. Thị cố tứ đại thị thực hữu). Những cái được đề cập trong đoạn này đều là thuộc về "tự tướng". Tiếp theo, đoạn sau cùng của phẩm này, nói: "Vững chắc (kiên)...có nghĩa, là vì tướng vững chắc có khả năng giữ vững. Tướng nước có thể ẩm ướt. Tướng lửa có thể nóng. Còn gió thì năng thành tựu. Cho nên, tứ đại là thực". (Kiên đẳng hữu nghĩa. Sở vị kiên tướng năng trì. Thủy tướng năng nhuận. Hỏa tướng năng nhiệt. Phong năng thành tựu. Thị cố tứ đại thị thật). Điều này chỉ ra tác dụng của tứ đại. Căn cứ hai nguyên nhân trên, học thuyết hữu bộ cho rằng "tứ đại" chính là thực hữu. Ngược lại, Ha Lê Bạt Ma không công nhận luận điểm này, bởi vì, như trước đã nói, "tứ đại" không phải là nguyên tố sau cùng của thế giới vật chất, "tứ đại" cũng là sản phẩm của nhiều yếu tố, cho nên có thể hiểu, hình ảnh biểu hiện của "kiên" ở đây tương đối nhiều, mà không phải duy nhất, không có tính quyết định. Lại ví dụ về "thủy chủng", trong phẩm Tứ đại giả danh thứ 38, nói: "Phật nói nước có tám công đức. Nhẹ, lạnh, mềm, ngon, trong sạch, chẳng hôi, mỗi khi uống vào điều hòa, khoan khoái, và uống rồi không bị bệnh hoạn." (Phật thuyết bát công đức thủy. Khinh lãnh nhuyễn mỹ. Thanh tịnh bất xú. Ẫm thời điều thích. Ẫm dĩ vô hoạn). Như vậy, như Phật nói mà biết, "thủy", bản thân của nó không đơn thuần chỉ có "nhuận tính" (tính năng thấm ướt), mà còn có tám đặc trưng khác. Cũng trong phẩm này, Ha Lê Bạt Ma kết luận: "… Trong đó, nhẹ, lạnh, mềm đều thuộc về xúc nhập; ngon thuộc về vị nhập. Trong sạch thuộc về sắc nhập; chẳng hôi thuộc về hương nhập; điều hòa, khoan khái không bệnh hoạn là thuộc thế lực của nó. Tám công đức này hòa hợp nhau, gọi chung là nước." (…Thị trung nhược khinh lãnh nhuyễn. Giai thị xúc nhập. Mỹ thị vị nhập. Thanh thị sắc nhập. Bất xú thị hương nhập. Điều thích vô hoạn. Thị kỳ thế lực. Thử bát hòa hợp. Tổng danh vi thủy). Sau cùng, ông quy nạp tám loại tính chất ấy là xúc, vị, sắc và hương (tứ trần).
Từ quan điểm này, chúng ta có thể suy luận, "tứ trần" ở đây là nguyên nhân hình thành của "tứ đại". "Tứ trần" là "thực danh" hữu, mà "tứ đại" thì là "giả danh" hữu; "Giả danh" hữu, có nghĩa là "tứ đại giai không". Bởi vì, "tứ trần" không thể tách rời đối tượng cảm giác của chức năng cảm giác của con người, cho nên tại đây đã thừa nhận tính thực tại của các cảm giác, lấy bốn loại cảm giác thay thế cho bốn loại vật thể, gạt bỏ triệt để vật chất từ trong kết cấu của thế giới và nhân thể. Tác giả Luận thành thật đã phủ nhận "thực hữu" (tứ đại/thân thể) của hữu bộ, đồng thời khẳng định "thực hữu" (tứ trần/cảm giác con người) của mình. Tương tự với quan điểm của ông, sau này trong Tam luận huyền nghĩa của tác giả Cát Tạng cũng nhấn mạnh luận điểm này: "Rằng: Sắc, hương, vị và xúc là thực vậy; đất, nước, lửa và gió là giả vậy." (Vân: Sắc hương vị xúc, thực dã; địa thủy hỏa phong, giả dã)(10).  
(Còn tiếp)

Nguyễn Phước Tâm
Nguồn: http://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=7A6453
Ghi chú:
1) Xem tại: http://baike.baidu.com/view/19679.htm?fr=ala0. 
(2) "Thành thật luận", quyển 3-T32, No.1646. 
(3) "Tam tâm-giả danh, pháp, không. Tam tâm lấy nhân duyên bất đồng quán chiếu, mà phân biệt công đức thành tựu. Một là giả danh tâm, do là giả danh nhân ngã mà sinh ra cố chấp, cho rằng thực hữu; như lấy nhân duyên trí diệt trừ, tức được nhân không quán. Hai là pháp tâm, do là sự sinh khởi các pháp của ngũ uẩn, chấp tâm có thực thể, như lấy không trí diệt trừ, tức được pháp không quán. Ba là không tâm, do là quán chiếu nhân pháp đều không, tâm sinh khởi không có, như diệt đoạn cố chấp không này, tức được ngã pháp đều không; đến cuối cùng "không" cũng không thể được, là công đức viên thành." (Xem Bạch Vân lão Thiền sư (2006), Phật pháp triết học khái luận. NXB. Văn hóa Tôn giáo Đài Bắc). 
(4) "Thành thật luận", Quyển 3-Phẩm Vô ngã thứ 34-T32, No.1646. 
(5) "1-) Dục giới (Phạn: kāma -dhātu), tức thế giới sở cư hữu tình như dâm dục, tình dục, sắc dục, ẩm dục…Trên từ tha hóa tự tại thiên thứ 6, giữa bao gồm tứ đại châu của nhân giới, dưới đến nhị thập xứ như vô gián địa ngục; vì nam nữ tham cư, đa chư nhiễm dục, nên gọi là dục giới. 2-) Sắc giới (Phạn: rūpa-dhātu), sắc là ý nghĩa thay đổi, trở ngại hoặc thị hiện. Trong dục giới, không có dục nhiễm, cũng không có nữ hình, chúng sinh ở đó đều do hóa sinh, cung điện cao to, là do sự hóa sinh của sắc, tất cả đều xinh đẹp. Gọi là sắc giới. Giới này dựa vào sự sâu- cạn, thô- diệu của thiền định mà phân làm bốn bậc, từ sơ thiền Phạn thiên, cuối đến A già nhị trá thiên, Tất cả có thập bát thiên. 3-) Vô sắc giới (Phạn: arūpa -dhātu), chỉ có tứ tâm là thọ, tưởng, hành và thức, mà thế giới sở trú hữu tình vô vật chất. Giới này không có vật chất nào, cũng không có thân thể, cung điện, quốc thổ, chỉ có tâm thức trú ở thiền định thâm diệu, nên gọi là vô sắc giới. Trong sắc giới này, tổng có tứ thiên (không vô biên xứ thiên, thức vô biên xứ thiên, vô sở hữu xứ thiên, phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, lại gọi tứ vô sắc, tứ không xứ)". (Xem tại: http://baike.baidu.com/view/21051.htm?fr=ala0). 
(6) Matsunaga, A. & D. Foundation of Japanese Buddhism, Vol I, Tokyo: Kenkyusha Printing Co., 1974 (Xem lại tại: http://www.vinhnghiemvn.com/giaoduc/724459.aspx). 
(7) Cao Dương, Kinh Tam Long, Ấn Độ: Triết học và Phật giáo, NXB. Nghệ thuật Thái Bạch, Tây An, năm 2001, trang 340. 
(8) Thành thật luận, Quyển3 - Sắc tướng trong Luận sắc của Khổ đế tụ, phẩm 36-T32, No.1646 (CBETA Điện tử Phật điển tập thành). 
(9) Xem tại: http://hi.baidu.com/%D2%BB%D2%BB%D4%B5%C4%D1%B5%C3/blog/em/63085efa8e5b2bd9b48f3155.html. 
(10) Tiếng Ấn Độ cổ gọi là Kiệt ma, Phạn ngữ là Karma, Pàli văn là Kamma, Trung văn dịch là "Nghiệp". Hàm nghĩa của Nghiệp có ba: một, tạo tác; hai, hành động; ba, tố sự. (Xem tại: http://tieba.baidu.com/f?kz=150378350).
Share this article :

Đăng nhận xét

 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. Một chút cho đời - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger