Hôm nay, tôi muốn giới thiệu cùng các bạn bài viết về tri thức của Ts Nguyễn
Đình Đăng (Nhật). Trong bài này, anh Đăng thuật lại vài giai thoại thú vị về bàn
luận trí thức, mà lần đầu tiên tọi được biết. Anh còn trình bày 10 dấu hiệu (mà
tôi hiểu là “việc làm”) của người trí thức theo Vitaly Tepikin. Chiếu theo 10
việc làm này thì chắc VN có rất ít trí thức. Tôi đăng lại dưới đây và hi vọng
các bạn sẽ có một món ăn tinh thần bổ ích. Tựa đề là tôi đặt (còn nhớ đường Tự
Do và Công lí ở Sài Gòn?), nhưng tựa đề gốc của anh Đăng là “Trí
thức”.
Trong bài này, anh Đăng có nhắc đến cuộc di tản
sau 1975 chưa từng có trong lịch sử VN. Nhân kỉ niệm 30 năm tôi định cư ở Úc,
đọc những dòng chữ của anh làm tôi cảm động. Tôi cũng là một trong những người
trong làn sóng lịch sử đó. Hàng trăm ngàn người đã chìm xuống lòng Biển Đông.
Biết bao nhiêu thảm trạng ập đến những người Việt trong hành trình vượt biên.
Lên đến bờ cũng chết và bỏ lại thân xác ở đất khách quê người. Tôi không bao giờ
quên những đồng hương (trong đó có anh Hai tôi) đã nằm xuống ở Thái Lan, Mã Lai,
Nam Dương. Đúng là một cuộc di tản qui mô lớn chưa bao giờ có trong lịch sử VN.
Nhưng không có ai của Nhà nước chính thức ghi nhận sự kiện này. Tôi chưa bao giờ
nghe / đọc một người từ miền Bắc nhắc đến sự kiện này. Anh Đăng là người đầu
tiên nói đến cuộc di tản này với cái nhìn khách quan và nhân bản. Chính vì thế
mà tôi cuốn hút theo bài viết, dù những gì anh ấy nhắc chỉ là một đoạn văn.
Đoạn cuối bài viết có một câu tôi thấy tâm đắc:
“Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe sang (hay tặng nhà to) lại
vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một trong hai thứ đó.
Lập luận rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn tới Công Lý (hay
Tự Do) là ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc biệt, nếu bạn là một
người lao động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn chọn cái gì sẽ tự
động xếp bạn vào hàng ngũ những ‘trí thức dự khuyết’, hay vào đám học giả xu
thời đang ngày càng lạm phát trên đất nước này. “
Nói theo tiếng Anh là anh Đăng đã “just right to
the point”!
Xin nói thêm rằng anh Đăng là một người đa tài.
Thật sự đa tài. Anh là nhà vật lí có nhiều công trình nghiên cứu đẳng cấp giáo
sư. Nhưng hơn thế nữa, anh còn là một hoạ sĩ tài hoa, từng có tranh triển lãm ở
Việt Nam và Nhật. Anh là một nhà trí thức đúng theo nghĩa của một
intellectual.
Nguyễn Văn Tuấn
http://nguyenvantuan.net/news/6-news/1419-tri-thuc-tu-do-va-cong-li
Trí thức
Nguyễn Đình Đăng
Hồi còn là sinh viên năm thứ nhất (1976 – 1977)
tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva [1], một lần ngay trong giảng đường vào
giờ nghỉ, chúng tôi được yêu cầu khai lý lịch để nộp cho giáo vụ trường. Đến mục
thành phần giai cấp của gia đình, tôi viết “trí thức” (интеллигенция), lại còn
“trầm trọng” ghi chú “cha: thầy giáo, mẹ: bác sĩ” (отец – учителъ, мать – врач).
Petya, cậu bạn Nga của tôi, thấy vậy bảo: “Ê, tiểu tư sản! Xoá đi mày! Ghi như
tất cả chúng tao đây này: рабочий (lao động, công nhân).” Thấy tôi có vẻ băn
khoăn, cậu ta giải thích: “Chúng tao gọi thầy giáo và bác sĩ là những người lao
động trí óc (работники умственного труда).”
*
Phải nói thẳng một cách sòng phẳng như thế này.
Trong lịch sử nhân loại chưa có một chế độ độc tài nào lại tôn trọng trí thức.
Độc tài và trí thức không khác gì lửa và nước. Tần Thủy Hoàng từng ra lệnh đốt
Kinh Thi và Kinh Thư, chôn sống hơn 460 Nho sĩ. Sa Hoàng Nikolai Đệ Nhị từng căm
ghét trí thức đến nỗi muốn loại bỏ từ “trí thức” khỏi từ vựng của tiếng Nga:
“Trí thức là một từ ghê tởm,” ông ta nói. Nhà độc tài kế tiếp ông, lãnh tụ cộng
sản Lenin còn tiến một bước xa hơn khi đã không ngần ngại sử dụng một trong
những từ thiếu sạch sẽ nhất để gán cho trí thức: Lenin gọi trí thức là
cứt. Trong thư gửi Maxim Gorky ngày 15/9/1919, Lenin viết: “Các lực
lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật
đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình
là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt.”
[2].
Khác với từ intellectuals trong tiếng Anh, thường
được dùng chủ yếu để chỉ những người có nghề nghiệp chuyên môn trong các lĩnh
vực lao động trí tuệ nhằm phân biệt họ với những người lao động chân tay, khái
niệm trí thức (интеллигенция) trong tiếng Nga được dùng cho tầng lớp của những
người không đơn thuần chỉ có học và lao động trí óc, mà còn phải có tư duy phê
phán, phải gánh vác những lý tưởng cao cả. Các tính năng chính của trí thức Nga
trước cách mạng tháng 10 mang đặc thù của những cứu tinh trong xã hội, bao gồm:
1) sự quan tâm tới số phận của đất nước (trách nhiệm dân sự), 2) thái độ và hành
động hướng tới phê bình xã hội, tới cuộc đấu tranh với tất cả những gì cản trở
sự phát triển quốc gia (vai trò của những người gánh vác lương tâm xã hội), và
3) khả năng đồng cảm với những ai “bị xúc phạm và bị xỉ nhục” (cảm giác đồng cảm
về đạo đức).
Vốn có truyền thống tự chịu trách nhiệm về tương
lai của đất nước như vậy, nên một số trí thức Nga đã có ảo tưởng ngây thơ rằng
họ có thể hợp tác với chính thể độc tài, thuyết phục những người cầm đầu để họ
cải tổ theo chiều hướng tự do dân chủ. Họ chưa bao giờ thành công. Sau cách mạng
tháng 10 Nga, các văn hào như Maxim Gorky và Vladimir Korolenko đã đích thân tới
gặp Lenin với hy vọng thuyết phục ông ngừng khủng bố, nhưng họ đã thất bại.
Những người cầm đầu trong bộ máy quyền lực của
chính thể cộng sản đã không bao giờ tha thứ thái độ “phản động” hay “phản cách
mạng” của giới trí thức và đã nhanh chóng đàn áp họ. Thi sĩ nổi tiếng Nikolai
Gumilev là nạn nhân đầu tiên. Năm 1921 ông đã bị buộc tội âm mưu chống lại chế
độ Xô Viết và đã bị xử bắn. Cuộc đàn áp trí thức của chính quyền Xô Viết đã đẩy
hàng loạt trí thức Nga di tản ra nước ngoài sau cách mạng tháng 10. Những đại
diện xuất sắc của giới trí thức Nga thời đó, kể cả các triết gia và các văn hào
lớn như Nikolai Berdyaev [3] – chủ bút tờ Vekhi (Вехи: Những cột mốc), cũng bị
chính quyền trục xuất ra khỏi đất nước vào cuối năm 1922. Sự đàn áp này còn tiếp
tục cho tới khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, với nhiều văn nghệ sĩ và trí thức
bị tống giam, trục xuất, đày ải, trong đó có những cá nhân kiệt xuất như nhà vật
lý Lev Landau (Nobel vật lý năm 1962, bị bắt giam 1 năm trong đợt thanh trừng
1936 – 1938), nhà thơ Iosif Brodsky (Nobel văn chương năm 1987, bị trục xuất năm
1972), nhà văn Alexandr Solzhenitsyn (Nobel văn chương năm 1970, bị bắt giam 11
năm tù 1945 – 1956, bị trục xuất năm 1974), nhà vật lý Andrei Sakharov (Nobel
hoà bình năm 1975, bị bắt và bị quản thúc 6 năm 1980 – 1986), v.v.
Dưới chính thể cộng sản, Đảng cộng sản cai trị
toàn xã hội, không cho phép bất cứ đảng phái đối lập nào khác tồn tại, chưa nói
cạnh tranh quyền lực, và thẳng tay trừng trị mọi tư tưởng khác quan điểm do đảng
áp đặt, chứ chưa nói tới hành động, mà những người cộng sản cho rằng có thể đe
doạ địa vị thống trị của họ. Chỉ riêng chế độ Stalin – người kế thừa Lenin – đã
hành quyết và đầy ải đến chết hơn 20 triệu người [4], gấp đôi số nạn nhân đã
chết trong các lò thiêu người và trại tập trung của phát-xít Hitler. Chính thể
cộng sản quả thật là chính thể độc tài tàn bạo nhất trong thế kỷ thứ 20.
*
Bài học đau xót của trí thức dưới chính thể cộng
sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được lặp lại tại Việt Nam. Vào năm 1956,
khi một số văn nghệ sĩ, luật sư, triết gia, bác sĩ, nhà giáo tại Hà Nội như
Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Phan Khôi, Tử Phác, Phùng Quán,
Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, v.v. lên tiếng đề nghị Đảng cộng
sản (lúc đó lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam) tôn trọng tự do sáng tạo, hành xử
theo luật pháp v.v., họ đã bị đàn áp thẳng tay trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cải
cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và vụ Nhân Văn Giai
Phẩm là những đòn trí mạng giáng vào giới trí thức Việt Nam, và kết quả là đã
“đào tận gốc trốc tận rễ” tầng lớp này trên miền Bắc. Còn sau năm 1975, Việt Nam
là đất nước đã sinh ra cuộc di tản khổng lồ bằng thuyền khủng khiếp nhất trong
lịch sử hiện đại [5] với hơn 1.6 triệu người bỏ quê hương di tản ra ngoại quốc,
trong đó có hàng ngàn trí thức miền Nam [6].
Trên thực tế, nếu hiểu giới trí thức như khái
niệm интеллигенция, thì Việt Nam từ đó không còn giới trí thức nữa. Thay vào đó,
cụm từ “trí thức xã hội chủ nghĩa (XHCN)” đã ra đời tại miền Bắc XHCN, và sau đó
cụm từ này đã chết yểu. Nó cũng tương tự như việc thay thế chủ nghĩa hiện thực
trong văn học nghệ thuật bằng “hiện thực XHCN” tại Liên Xô trước đây mà nhiều
nước trong khối cộng sản đã bắt chước. “Hiện thực XHCN” đã hoàn toàn phá sản sau
khi Liên Xô sụp đổ. Câu chuyện tiếu lâm dưới đây, mà tôi từng được nghe trong
thời sinh viên tại Liên Xô, đã nêu rõ thực chất của thứ “hiện thực” này.
Thành Cát Tư Hãn sau khi chinh phạt thế giới, đã
trở thành bá chủ một đế quốc mênh mông trải dài từ bờ biển Đông tới lưu vực sông
Danube. Tuy nhiên, trong một lần chinh chiến, ông ta đã bị mất một mắt. Có lần
vị hoàng đế nhà Nguyên này ban lệnh tìm hoạ sĩ giỏi để vẽ chân dung cho mình.
Hoạ sĩ thứ nhất được tiến cử tới yết kiến Thành Cát Tư Hãn, và đã vẽ hoàng đế
nhà Nguyên với đầy đủ cả hai mắt tinh. Sau khi bức tranh được hoàn thành và được
đem trình hoàng đế xem, Thành Cát Tư Hãn khinh bỉ nói: “Sao lại có cái thứ lãng
mạn chủ nghĩa đồi bại thế này?”, rồi ra lệnh chém đầu hoạ sĩ. Hoạ sĩ thứ hai
được vời tới. Rút kinh nghiệm thảm khốc từ hoạ sĩ trước, hoạ sĩ này đã vẽ Thành
Cát Tư Hãn giống y như thực, tức là với một mắt tinh và một mắt chột. Thành Cát
Tư Hãn liếc nhình bức tranh rồi phán: “Tự nhiên chủ nghĩa tục tằn!” Hoạ sĩ thứ
hai cũng bị bay đầu. Hoạ sĩ thứ ba đã vẽ chân dung Thành Cát Tư Hãn en profil
(chân dung nhìn nghiêng), chỉ thấy con mắt tinh, còn con mắt chột được che khuất
trong nửa không nhìn thấy của khuôn mặt. Hoàng đế nhà Nguyên xem tranh và khen:
“Đây mới thực sự là hiện thực xã hội chủ nghĩa!”, rồi truyền ban thưởng cho hoạ
sĩ.
Trong tác phẩm “Trí thức và vai trò của nó trong
quá trình văn hoá”, Vitaly Tepikin đã tổng hợp và đề xuất 10 dấu hiệu của giới
trí thức hiện đại là [7]
1 – có lý tưởng đi trước thời đại, nhạy cảm với
người xung quanh, lịch sự nhũn nhặn trong biểu hiện;
2 – tích cực lao động trí óc và liên tục tự
học;
3 – ái quốc dựa trên niềm tin vào nhân dân và có
tình yêu quê hương sâu sắc;
4 – sáng tạo không mệt mỏi và có lối sống giản dị
đến khổ hạnh;
5 – độc lập, có khát vọng đạt tới tự do biểu
hiện, và tìm thấy mình trong khát vọng đó;
6 - có quan hệ phê phán đối với chính quyền, lên
án mọi biểu hiện của bất công, vô nhân đạo, phản nhân văn, phản dân chủ;
7- trung thành với niềm tin do lương tâm mình
mách bảo, ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất, kể cả phải hy sinh quyền
lợi bản thân;
8 – nhận thức thực tế một cách mơ hồ, dẫn đến dao
động về chính trị và đôi khi có biểu hiện bảo thủ;
9 – Có niềm oán hận lớn trước những gì không thực
hiện được trên thực tế hoặc trong tưởng tượng, kết quả là đôi khi trở nên hoàn
toàn khép kín tự cô lập mình;
10 – Các nhà hoạt động chuyên môn trong các lĩnh
vực khác nhau, và ngay cả trong cùng một lĩnh vực, thường hiểu lầm nhau, hậu quả
là đôi khi nổi cơn ích kỷ hoặc bốc đồng.
Tepikin cho rằng một cá nhân có ít nhất một nửa
số dấu hiệu trên đây có thể được gọi là “trí thức theo nghĩa đại khái của từ
đó”. Chuyển sang ngôn ngữ Việt Nam đương đại, có thể tạm gọi những người thoả
mãn 5/10 biểu hiện nêu trên là các “trí thức dự khuyết”.
Trong giới những người (thực sự) có học vấn của
Việt Nam, đại đa số chắc hội đủ ba dấu hiệu cuối (8 – 10). Những người khoa bảng
mà lúc đầu từng hoạt động chuyên môn nhưng sau bỏ để ra làm quan thì khó có thể
giữ được các dấu hiệu 2, 4 – 10, nếu không nói rằng hai dấu hiệu còn lại (1 và
3) đối với những người này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
*
Tương truyền, trong một lần thuyết giảng, triết
gia cổ Hy Lạp Plato đã định nghĩa “con người là một động vật đi bằng hai chân và
không có lông vũ.” Diogenes – một triết gia cổ Hy Lạp khác – nghe vậy bèn bắt
một con gà, vặt sạch lông, thả vào giảng đường, rồi nói: “Các người hãy nhìn
kìa, đó là Con Người theo định nghĩa của Plato!” Nghe nói Plato sau đó đã phải
thêm “có móng rộng và bẹt” vào định nghĩa “Con Người” của mình.
Gẩn đây có một vài ý kiến của một số “Plato Việt
Nam” muốn xác định lại các tiêu chí thế nào là trí thức. Ngay lập tức họ được
các “Diogenes Việt Nam” lên tiếng sửa gáy. Đội quân các “Diogenes Việt Nam” rất
hùng hậu, có tới cả ngàn. Thay vì sống trong thùng tô nô, họ sống trong các
blog. Họ cũng không xách đèn đi tìm người lương thiện giữa ban ngày [8], bởi
dường như đã biết trước câu trả lời. Họ lại càng không có cơ hội để làm như
Diogenes khi gặp Alexander Đại Đế. Theo sử gia Plutarch, khi Alexander Đại Đế
tới Corinth, những người đứng đầu thành phố và các triết gia đã lũ lượt kéo nhau
tới yết kiến Alexander, chỉ riêng Diogenes vắng mặt. Alexander bèn đích thân đi
tìm Diogenes, và thấy ông này đang nằm dài sưởi nắng bên cái thùng ông dùng làm
chỗ ngủ. Khi Alexander Đại Đế hỏi: “Hỡi nhà hiền triết, ngươi có muốn ta làm gì
giúp ngươi không?”, Diogenes đã trả lời: “Ngài hãy đứng tránh sang một bên để
khỏi che lấp ánh mặt trời của tôi.” Các triết gia và đám tùy tùng của Alexander
Đại Đế nghe vậy cười phá lên, trong khi chính Alexander Đại Đế nói: “Nếu ta
không phải là Alexander thì ta đã là Diogenes.”
Tới đây tôi chợt nhớ tới ca từ trong một bài hát
của nhóm hip hop Dead Brez:
Bạn muốn có một chiếc Lexus hay Công Lý?
Một ước mơ hay của cải?
Một chiếc BMW, một chuỗi hạt xoàn, hay Tự
Do? [9]
Ca từ này đúng hơn bao giờ hết tại Việt Nam đương
đại. Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe sang (hay tặng nhà to) lại
vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một trong hai thứ đó. Lập luận
rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn tới Công Lý (hay Tự Do) là
ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc biệt, nếu bạn là một người lao
động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn chọn cái gì sẽ tự động xếp bạn
vào hàng ngũ những “trí thức dự khuyết”, hay vào đám học giả xu thời đang ngày
càng lạm phát trên đất nước này.
Tokyo, 25/2/2012
Chú thích:
[1] Tên đầy đủ Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva
mang tên M.V. Lomonosov (Московский Государственный Университет имени М.В.
Ломоносова), viết tắt là MGU (МГУ).
[2]
Nguyên văn tiếng Nga: “Интеллектуальные силы рабочих и крестьян растут и крепнут
в борьбе за свержение буржуазии и ее пособников, интеллигентиков, лакеев
капитала, мнящих себя мозгом нации. На деле это не мозг, а
говно”. Trích từ V.I. Lenin, Thư gửi A.M. Gorky ngày 15/9/1919, Toàn
tập, Tái bản lần thứ 5, NXB Văn học Chính trị, 1978, tập 51, trang 48-49 (В.И.
Ленин, Из
письма А.М. Горькому от 15 сентября 1919 года, Полное собрание сочинений,
издание пятое Изд-во политической литературы, 1978 г. т. 51, стр. 48-49) (Xem
bản tiếng Anh tại
đây)
[3] Nikolai Alexandrovich Berdyaev (Николaй
Алексaндрович Бердяев) (1874 – 1948) – triết gia Nga; thời Sa Hoàng, do tham gia
nhóm Marxist nên từng bị bắt năm 20 tuổi và bị đày biệt xứ; năm 29 tuổi do chỉ
trích Nhà Thờ Chính thống Nga nên bị kết tội báng bổ và bị đày đi Siberia; dưới
thời Xô Viết do không chịu chấp nhận chính thể của đảng Bolshevik áp đặt sự
thống trị của nhà nước độc tài lên tự do cá nhân, nên đã bị chính quyền Xô Viết
trục xuất cùng hơn 160 nhà văn và học giả danh tiếng khác sang Đức bằng tàu thủy
vào tháng 9/1922 (từ một danh sách gồm 280 người bị bắt trong đó có 32 sinh
viên).
[4] New
World Encyclopedia, http://www.newworldencyclopedia.org/entry/Great_Purges;
Heroes
& Killers of 20the Century: Joseph Stalin: http://www.moreorless.au.com/killers/stalin.html
[5]
Theo báo cáo của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, 1/3 số thuyền nhân
(boat people) Việt Nam đã chết trên biển vì bị giết, bão, bệnh tật, đói. Thống
kê của Cao ủy này cho biết chỉ riêng năm 1981 có 15095 thuyền nhân Việt Nam
đã vượt biên từ Việt Nam tới được Thái Lan trên 455 thuyền. Trong số đó có 352
thuyền (77%) bị bọn hải tặc tấn công. Số vụ tấn công là 1149 tức trung bình mỗi
chiếc thuyền bị hải tặc tấn công hơn 3 lần. 571 người Việt Nam đã bị hải tặc
giết. 599 phụ nữ Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp. 243 người Việt Nam đã bị bắt
cóc.
[6] Postwar
Vietnam: Dynamics of a transforming society, Ed. Hy V. Luong, (Rowman &
Littlefield Publishers Inc., 2003).
[7]
Виталий Тепикин, Интеллигенция,
ее роль в культурном процессе. Vitaly Tepikin là tiến sĩ lịch sử, chuyên gia
về lý thuyết và lịch sử trí thức, giáo sư thuộc viện Tri thức khoa học tự nhiên
Nga (Российская академия естествознания).
[8] Diogenes từng xách đèn đi ngoài phố giữa ban
ngày. Khi được hỏi làm gì đấy, ông trả lời: “Tôi đi tìm một người lương thiện.”
Tương truyền ông chỉ gặp toàn bọn bất lương và vô lại.
[9] Nguyên văn: You would rather have a Lexus or
Justice? A dream or some substance? A Beamer, a necklace or Freedom?
Đăng nhận xét