Nhà triết học duy vật người Hy Lạp Heraclitus (535 - 475
TCN), người được coi là cha đẻ của phép biện chứng mà đây đó không ít
người vẫn lặp đi lặp lại và nói theo trên các phương tiện truyền thông,
từng có phát biểu kinh điển: “No man ever steps in the same river twice,
for it's not the same river and he's not the same man” (Tạm dịch: Không
ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông, bởi lẽ dòng sông nay không phải
là dòng sông trước và con người nay không phải là con người trước”).
Ảnh Internet
Dưới
nhãn quan của Heraclitus, mọi sự vật luôn biển đổi, vận động và phát
triển không ngừng. Nôm na là vũ trụ này như một dòng sông chảy mãi, trôi
mãi, cứ thế đến vô tận của chiều kích thời gian, và ngay cả thân thể
con người cũng thế. Ở phương Đông, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh từng phát biểu
tư tưởng triết học này trong bài thơ, tưởng chỉ rất “tình”, có tên
“Thuyền và biển”, thể hiện cái chân lý “không đứng yên” đó: Cũng có khi
vô cớ/ Biển ồ ạt xô thuyền/ Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên?
Nếu xem cái “phi bất biến” của tình yêu là chính cuộc sống này, thì thực
ra nó là vậy. Chẳng có gì là đứng yên.
Trong tiếng Anh, tôi khá
“ám ảnh” với cái từ mà với những ai học và thi chứng chỉ quốc tế của môn
này đều hầu như phải biết: “stable”. Từ này, ở dạng tính từ, có nghĩa
là “ổn định”, “không thay đổi”, “không dịch chuyển”, nhưng ở dạng danh
từ nó lại mang nghĩa là “cái chuồng ngựa”, và khi là động từ nó lại có
nghĩa “nhốt ngựa vào chuồng”. Sở dĩ bị ám ảnh, bởi trong ngôn ngữ tự
nhiên “các cụ” đã “cấy” vào đó những thông điệp đắt giá. Con người qua
quá trình dụng ngôn, lập ngôn và diễn ngôn, họ đã truyền tải vào ngôn
ngữ tư tưởng của mình và những bài học triết lý của cuộc sống này. Chúng
ta thích sự ổn định, nhưng sự ổn định đó lại manh nha một vòng kim cô
của tính bảo thủ và trì trệ. Bản thân khái niệm ổn định không hàm chứa ý
nghĩa cải thiện về mặt chất lượng (theo hướng tốt hơn) của các thực tế.
Thực tế thì sinh động và không đứng yên, trong khi “ổn định” thực chất
là ta đang đứng lại. Về bản chất, những đổi thay có chất lượng là nguyên
liệu của sự phát triển, nó như là củi để duy trì đám lửa đêm đông.
Vài
người bạn của tôi khi qua ngưỡng tuổi 30, đứng trước những ngả đường,
họ thường ngại ngần, từ chối sự đổi thay và biện minh bởi lý do “thích
ổn định”. Họ ngại khi phải bước vào một cuộc dấn thân mới với những thử
thách mới. Ổn định mang lại cho họ cảm giác an toàn, dù là nhất thời.
Một hôm nọ, tình cờ tôi gặp tổng biên tập của tờ báo được coi là lớn ở
xứ ta, hỏi facebook để kết nối, anh bảo: Kinh tế khó khăn, mải lo cho
đời sống của hàng trăm anh em phóng viên, nên mình chưa có thời gian…
mở tài khoản. Tôi cố an ủi mình rằng, một người nắm giữ vị trí cực kỳ
quan trọng ở một tòa soạn như anh chẳng thể nào không biết một trong
những lý do chính khiến tờ báo giấy (vốn có truyền thống) của mình tụt
dốc là vì sự cạnh tranh của… mạng xã hội (?!). Còn một ông giáo sư về
truyền thông, trong lúc đám sinh viên hỏi địa chỉ hòm thư điện tử để gửi
bài, anh không thiếu hồn nhiên dõng dạc bảo… “cái đó mình để quên trong
ngăn kéo ở nhà”.
Nhìn rộng hơn, đôi khi nhân danh sự ổn định, để
ai đó không chịu đổi mới chỉ vì “sở thích” này, và quan trọng hơn, vì
chính quyền lợi của những nhóm nhỏ. Nhưng mà, trong cơn say của việc
“tham một bát”, chúng ta đã “bỏ cả một mâm”. Tâm lý ngại cái mới, “ta
được ăn 5 còn thiên hạ lỗ, còn hơn ta ăn 10 nhưng thiên hạ ăn 5” cũng
cột chân con ngựa phát triển. Nhiều khi, dân tộc mình đã lỡ cái “mâm cỗ”
thịnh soạn là kết quả hứa hẹn của cuộc canh tân, chỉ vì mải mê với tâm
lý tiểu nông và cái vòng kim cô cũ kỹ. Như vậy, sự ổn định không chỉ là
“đưa (bầy) ngựa vào chuồng” mà còn là ta tự “nhốt” cơ hội phát triển của
chính ta.
Ngay trước Minh Trị Duy Tân, nước Nhật đứng trước nguy
cơ mất nước, một đất nước phong kiến dưới sự trị vì (bắt đầu từ những
năm đầu của thế kỷ 17) của Mạc Phủ (dòng họ Tokugawa) ở Edo (nay là
Tokyo), và sự xé lẻ cát cứ của 262 lãnh chúa với lãnh địa riêng. Khó
khăn chồng chất khó khăn, thách thức cộng thêm thách thức. Nếu sợ cái
mới, chuộng sự “ổn định” thì nước Nhật ắt hẳn chẳng có một Minh Trị Duy
Tân (nửa cuối thế kỷ 19) tạo đà cho nước Nhật thay đổi về chất và hùng
cường như ngày nay. Cũng cùng thời kỳ đó, ở nước ta, bi kịch của sự
thích ổn định lại bao trùm lên tầng lớp lãnh đạo lúc bấy giờ, phủ bức
màn lên số phận của dân tộc, và nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ là một nạn
nhân của “tệ” tâm lý này. Chính quyền phong kiến lúc bấy giờ từ chối
những tư tưởng canh tân, như một kẻ sống lâu ngày trong môi trường yếm
khí sợ bước ra ánh sáng. Và số phận đất nước đôi khi rẽ ngoặt vì không
ít người sợ đổi mới và ánh sáng của sự đổi thay.
Năm mới Giáp Ngọ
2014, thay vì “nhốt ngựa vào chuồng” và giam hãm chính mình, hãy chuẩn
bị áo giáp, nắm lấy yên cương, đi về nơi ánh sáng, chinh phạt thử thách,
và giành lấy thành công. Tin rằng, chẳng ai trói số phận mình hay muốn
sống mãi trong cái chuồng ngựa của cuộc đời. Sự chây ì trong những giai
đoạn nhất định chỉ là khoảnh khắc nào đó trong ánh chớp của lịch sử. Vì
rằng, những người con của dân tộc này chưa bao giờ đứng yên, chưa bao
giờ quỳ gối đầu hàng trước những thử thách của số phận.
Hãy cùng chúc cho mỗi chúng ta, dân tộc ta “lên ngựa” 2014 và phi nước đại thành công!
Nguồn: http://www.viet-studies.info/LeNgocSon_NhotNguaVaoChuong.htm
Đăng lại: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/160396/nhot-ngua-vao-chuong-hay-ta-nhot-chinh-ta-.html
Đăng nhận xét