Ảnh từ Internet
I. Lời nói đầu
Trong
một lần khảo sát về nhu cầu học ngoại ngữ của sinh viên Trường Đại học Trà
Vinh, trên Phiếu khảo sát nêu ra một yêu câu chung: “Hãy khoang tròn vào chữ cái (A hoặc B, C, D) mà Anh/Chị cho là phù hợp”,
trong list câu hỏi có câu: “Trong bối cảnh
Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), theo Anh/Chị ngoại ngữ là
một công cụ giáo tiếp: A. Rất quan trọng; B. Quang trọng; C. Bình thường; và D.
Rất bình thường”, thì chiếm đến 99% sinh viên khoanh tròn chọn:
“A. Rất quan trọng”. Thật ra, bằng
kinh nghiệp thực tế, chúng ta cũng có thể nhận ra rằng ngay nay ngoại ngữ đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong xu thế hội nhập quốc tế. Do thế, việc coi
trọng và tăng cường môn ngoại ngữ nói
chung trong chương trình của các bậc học là việc làm cần thiết và đúng với hướng
đi của Bộ giáo dục và đào tạo[1]. Tuy nhiên, để chọn một ngoại ngữ đúng với nghề nghiệp, sở thích và
xu hướng hội nhập thế giới mới, là vấn đề người học cần cân nhắc kĩ lưỡng trước
khi đưa ra quyết định. Thế thì, ngày nay người học nên chọn ngoại ngữ nào phù hợp
để học? Theo một khảo sát mới đây cho biết hiện nay có 6 ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới, trong đó tiếng
Trung dẫn đầu trong danh sách này[2]. Bên
cạnh đó, ngày nay tại Việt Nam chúng tôi thấy rằng các công ty, xí nghiệp ngày
càng có nhiều chủ doanh nghiệp đầu tư là người Trung Quốc, Đài Loan; chỉ tính ở
phía Nam tập trung không ít các khu công nghiệp như ở các tỉnh Bình Dương, Đông
Nai…; thậm chí những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, một tỉnh cách các
trung tâm thành phố lớn khá xa xôi cũng có không ít chủ doanh nghiệp là người Trung
Quốc đại lục quan tâm đầu tư. Chính vì thế, có thể khẳng định rằng tiếng Trung
hiện nay có một vài trò quan trọng tại tỉnh nhà.
II. Tại
sao cần mở rộng tiếng Trung Quốc
Dân
số Trung Quốc tính đến năm 2003 có tới 1.29 tỷ, chiếm khoảng 1/5 dân số thế giới,
cứ bình quân mỗi 5 người trên toàn cầu thì có đến 1 người Trung Quốc[3]. Đây
là một đất nước có nền văn minh, lịch sử lâu đời. Ngôn ngữ Trung Quốc là một
trong những ngôn ngữ được Liên Hiệp Quốc sử dụng chính thức. Các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, kinh tế… của Trung Quốc có tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa sâu rộng
trên khắp toàn cầu, đặc biệt hơn cả là khu vực Châu Á, trong đó có Việt nam.
1. Về phương diện văn
hóa: Có thể thấy nền văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam có nhiều điểm
tương đồng, do địa hình và liên quan vấn đề lịch sử, vì vậy khi học tập, nghiên
cứu văn hóa ( bao gồm văn học) Việt Nam, mà không hiểu biết văn hóa Trung Quốc,
thì là một thiếu sót;
2. Về phương diện giáo
dục: Gần đây một số nghiên cứu được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng cho biết về bảng xếp hạng trong công đồng giáo dục đại học khu vực và
quốc tế[4], cho
thấy Trung Quốc ( bao gồm các lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan…) là nước có nền
giáo dục có những thành tựu vượt bậc, đã đưa giáo dục của họ ra biển lớn, sánh
tầm cùng nền giáo dục quốc tế và đã dẫn đầu so với hệ thống giáo dục của các nước
khu vực. Cùng với nền giáo dục tiên tiến ấy, thì học phí, tạp phí, chi phí sinh
hoạt hàng ngày ở Trung Quốc nhìn chung thấp hơn nhiều so với các nước phương
Tây… Hiện nay, được biết tại Trung Quốc, Đài Loan đang có nhiều chính sách học
bổng bán phần, toàn phần của trường, chính phủ dành cho giảng viên, sinh viên
quốc tế[5]. Từ
những nguyên nhân trên, xu hướng chọn lựa học chuyển tiếp, đi thực tế, du học và
cả hợp tác trong lĩnh vực giáo dục tại các khu vực này ngày một gia tăng. Nhìn
từ góc độ giáo dục, quốc gia này vẫn là một địa điểm học tập lí tưởng;
3. Về phương diện kinh
tế: Vào khoảng năm 1979, sau khi chuyển đổi thành nền kinh tế thị trường,
Trung Quốc đã trở thành một nước có nền kinh tế năng động nhất thế giới. Ở Việt
Nam, ta có thể thấy tại các
Khu công nghiệp lớn, vừa và nhỏ ở miền Nam Việt nam (chỉ tính miền Nam) có không ít các chủ doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc, Singapore.
Những năm gần đây, các vùng khá cách xa với các trung tâm thành phố lớn của Việt
Nam
như tỉnh Trà Vinh cũng được các chủ doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc chú ý đầu
tư……
4. Về phương diện khác:
Cũng chính vì xu thế hội nhập toàn cầu hóa ấy, cho nên một số trường đại học đại
học hiện nay tại Việt Nam, ngoài ngôn ngữ Anh được đưa vào giảng dạy chính thức
ra, thì tiếng Trung cũng được giảng dạy, cụ thể như Trường Đại học Sư phạm Huế,
Trường Đại học Khoa học Huế, Trường Đại học Y Dược Huế, Trường Đại học An
Giang, thậm chí có trường còn tổ chức cho các cán bộ, giảng viên của trường
tham gia học tập theo đợt, như Trung tâm Ngoại Ngữ trường trường Đại học Thủ Dầu
Một[6],
hay như Trung tâm Ngoại Ngữ trường Đại học Cần Thơ mở lớp bồi dưỡng tiếng Trung[7]
cho các cán bộ, giảng viên trong trường có nhu cầu, nhằm tạo kiện thuận lợi cho
các cán bộ, giảng viên cũng như sinh viên của trường nghiên cứu khoa học, đi thực
tế, học chuyển tiếp, hoặc du học......
Nói chung, (chỉ tính) tại địa bàn Trà Vinh, nếu chúng ta biết
định hướng nghề nghiệp cho sinh viên, thì có thể thấy bên cạnh tiếng Anh, tiếng
Trung vẫn là một lựa chọn tốt nhất. Cụ thể như một số nhà máy điện lực Duyên Hải,
Cty Giày da Mỹ Phong… , cho đến một số trường cấp một như trường Minh Trí, Tân
Minh Trí cũng đang sử dụng tiếng Trung. Một khía cạnh khác, tại Trà Vinh, ngoài
người Khmer (chiếm 29%) ra, người Hoa cũng được coi là
dân tộc thiểu số (chiếm 0,2%)[8]. Vậy, cũng như việc học tập tiếng Khmer, học tập tiếng Trung cũng là
cách bảo tồn một phần trong tổng thể tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam,
có biết văn hóa tộc này mới có thể nâng cao sự nhận thức, thông hiểu, sẻ chia
giữa các tộc (Việt, Khmer, Hoa) với nhau. Những gì được trình bày trên đây,
cùng với xu hướng giáo dục quốc tế: giảm môn học bắt buộc, tăng môn học tự chọn,
là lí do đầu tiên mà chúng tôi đề xuất đưa tiếng Trung vào chương trình thành môn ngoại
ngữ tự chọn cho các ngành học tại Trường. Không chỉ dừng lại ở đề xuất
này, bước tiếp theo đặc biệt chúng tôi cũng có tham vọng, mong muốn Khoa trình
ý tưởng lên Ban Giám hiệu, phong ban liên quan mở chuyên ngành tiếng Trung Quốc tại Trường.
III. Chương trình tiếng Trung Quốc
Và để có một cái nhìn bao quát về Chương trình
đào tạo tiếng Trung Quốc, nay chúng tôi dự kiến thiết kế hai phần của
Chương trình này như sau:
1. Chương
trình tiếng Trung Quốc không chuyên[9]
1.1. Bảng trình độ tương ứng với mỗi học phần
Tên học phần
|
Số tín chỉ
|
Trình độ
kết thúc học phần
|
Ghi chú
|
||||
LT
|
TH
|
Tổng
|
HSK(1)
|
TOCFL (2)
|
CCQG
(3)
|
1.Nếu người học có Chứng chỉ tiếng Trung cao nhất tương
đương với 1 trong 3 trình độ được liệt kê bên trái sẽ được miễn học học phần
đó và các học phần có trình độ thập hơn. Yêu cầu Chứng chỉ phải còn giá trị sử
dụng;
2. Học học phần tiếng
Trung 1, không yêu cầu số điểm đầu vào.
3. CCQC là viết tắt của cụm từ Chứng chỉ Quốc gia Việt
Nam.
|
|
Tiếng Trung 1
|
2
|
2
|
4
|
Nhập môn
|
Nhập môn
|
Nhập môn
|
|
Tiếng Trung 2
|
2
|
2
|
4
|
Cấp 1
|
Cấp 1
|
A
|
|
Tiếng Trung 3
|
2
|
2
|
4
|
Cấp 2
|
Cấp 1
|
A
|
|
Tiếng Trung 4
|
2
|
2
|
4
|
Cấp 3
|
Cấp 2
|
B
|
|
Tiếng Trung 5
|
2
|
2
|
4
|
Cấp 3
|
Cấp 2
|
B
|
(1) HSK : Hanyu
Shuiping Kaoshi (Kì thi trình độ Hán ngữ/Trung Quốc)
(2) TOCFL :
Test of Chinese as a Foreign Language (Kì thi năng lực Hoa ngữ/Đài Loan)
(3) CCQG : Chứng chỉ Quốc gia (Việt Nam)
1.2. Bảng tổng số học phần, tín chỉ, số tiết,
trình độ của mỗi bậc học
Bậc học
|
Tổng học
phần
|
Tổng tín
chỉ
|
Tổng
số tiết
|
Trình độ đầu
ra của từng bậc
|
||
HSK
|
TOCFL
|
CCQG
|
||||
Đại học
|
5
|
20
|
450
|
Cấp 3
|
Cấp 2
|
B
|
Cao đẳng
|
4
|
16
|
360
|
Cấp 3
|
Cấp 2
|
B
|
TC CN
|
3
|
12
|
270
|
Cấp 2
|
Cấp 1
|
A
|
TC nghề
|
2
|
8
|
180
|
Cấp 1
|
Cấp 1
|
A
|
Ghi chú
|
1. Cách phân chia tổng điểm
tất cả các học phần của mỗi bậc học mang tính tương đối. Ví dụ số điểm
115-135 của HSK là giới hạn thấp nhất; Số điểm dao động từ 155 - 175 của HSK
được tính là cấp bậc C thuộc Chứng chỉ
sơ cấp (tức Chứng chỉ sơ cấp trong cách tính của HSK có ba cấp: C, B, A
tương ứng với điểm từng cấp 3, 4, 5. Tương tự Chứng chỉ trung cấp cũng phân
làm ba cấp C, B, A tương ứng với điểm từng cấp 6, 7, 8);
2. Được biết hiện nay, rất
ít trường dạy tiếng Trung không chuyên quy các học phần thành số điểm chuẩn
quốc tế. Đa phần đều ước tính trình độ tương đương Chứng chỉ Quốc gia là A,
B, C.
|
2. Chương
trình chuyên ngành tiếng Trung Quốc
2.1. Chương trình
đào tạo bậc cao đẳng/đại học ngành tiếng Trung Quốc
2.2. Chương trình
đào tạo cử nhân ngoại ngữ ngành Song ngữ Trung – Anh
2.3. Chương trình
đào tạo văn bằng 2 ngành tiếng Trung Quốc
……………………………………
IV. Kết luận và kiến nghị
1. Triển vọng môn học: Có thể khẳng định,
nếu chương trình tiếng Trung không chuyên vừa nêu ra trên trên đây được áp dụng,
thì triển vọng của nó, nói một cách gãy gọn sẽ là: a. Cơ hội nghề nghiệp;
b. Tạo
điều kiện thuận lợi cho việc học chuyển tiếp, đi thực tập, du học…;
c. Mở
ra cơ hội học bổng, và giao lưu, trao đổi, hợp tác với các trường viện Trung Quốc,
Đài Loan;
d. Bảo
tồn một phần di sản văn hóa và nâng cao sự hiểu biết tộc Hoa tại Việt Nam.
2. Một vài kiến nghị liên quan: Từ những triển vọng được nêu trên,
chúng tôi mạnh dạn đề xuất mấy vấn đề lên Ban Giám hiệu và khoa,các phòng, ban liên
quan về ý tưởng của mình như sau:
a.Xây dựng chương trình đào tạo theo hướng tăng cường môn học
tự chọn (không chỉ riêng ngoại ngữ), nhằm đa dạng hóa, phù hợp với nhu cầu thực
tế địa phương cũng như nguyện vọng người học[10];
b. Phía Nhà trường nên chủ động mở rộng hợp tác với một số
trường trong nước, tự mình hoặc liên kết bước đầu mở các Chương trình đào tạo
chuyên ngành tiếng Trung Quốc như đã liệt kê trên;
c. Nhà trường tổ chức theo đợt về khóa học tiếng Trung cho
các cán bộ, giảng viên nhằm chuẩn bị cho công việc liên quan như du học, đi thực
tế, hoặc các nhu cầu liên quan. Hiện nay, chúng tôi nhận thấy không ít giảng
viên, cán bộ của Nhà trường đã, đang và sẽ du học tại Đài Loan, trong tương lai
gần, chúng ta nên mở rộng lĩnh vực giáo dục với Trung Quốc[11],
Đài Loan.
d. Nhà trường, khoa, các phong, ban liên quan chủ động mời gọi
sự hợp tác giữa trường với các trường, viện Trung Quốc, Đài Loan.
e. Và vấn đề cuối cùng mang tính then chốt… là yếu tố con người,
tức nhân sự chuyên ngành tiếng Trung Quốc. “Một
cây làm chẳng lên non”!
Trên đây là những ý tưởng, đề xuất của chúng tôi. Rất mong được
sự quan tâm của các nhà giáo dục ở TVU.
[1]
Báo công an nhân dân điện tử: “Tăng cường ngoại ngữ cho sinh viên các trường ĐH, CĐ”.
Xem tại: http://www.cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2012/1/162472.cand
[2]
Danh sách 6 ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới, gồm có: 1. Tiếng Trung Quốc; 2.
Tiếng Anh; 3. Tiếng Hindi (Ấn Độ); 4. Tiếng Tây Ban Nha; 5. Tiếng Nga; và 6. Tiếng
Ả Rập. Tham khảo Báo điện tử VTC News: “Sáu
ngôn ngữ nhiều người sử dụng nhất thế giới” (http://vtc.vn/541-287754/the-gioi-du-hoc/6-ngon-ngu-nhieu-nguoi-su-dung-nhat-the-gioi.htm)
[3] Xem W. Scott Morton – C.M. Lewis, Trí Thức
Việt dịch, Lịch sử & Văn hóa Trung Quốc.
NXB. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2008, trang 19.
[4] Xem “Xếp hạng đại
học thế giới: Bài học từ Pháp và Trung Quốc” ( http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Xep-hang-dai-hoc-the-gioi-Bai-hoc-tu-Phap-va-Trung-Quoc/232721.gd ), hoặc “Báo động
từ nghiên cứu giáo dục” (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/94016/bao-dong-tu-nghien-cuu-giao-duc.html
) -Theo Phạm Thị Ly (ĐHQG TP.HCM) - Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc)/
Tuổi trẻ). Hoặc http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=3818%3Avit-nam-tt-hu-50-nm-so-vi-thai-lan-v-cong-b-khoa-hc&catid=115%3Agiao-dc&Itemid=189&lang=vi
[5] “Học bổng hàng năm của chính phủ Trung Quốc” (http://www.tienphong.vn/giao-duc/34698/Hoc-bong-hang-nam-cua-Chinh-phu-Trung-Quoc.html); “Đề án thí điểm kế hoạch Tân Hán học Khổng Tử TQ, năm 2012” (http://ccsp.chinese.cn/article/2012-11/09/content_469694.htm); “Học bổng Thạc sĩ Đài Loan toàn phần” (http://duhoc.dantri.com.vn/du-hoc/hoc-bong-thac-sy-dai-loan-toan-phanco-hoi-hoc-tap-va-nghe-nghiep-hap-dan-669058.htm); “Chương trình du học học bổng Trung Quốc – Đài Loan (http://www.hou.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=889:chng-trinh-du-hc-hc-bng-trung-quc--ai-loan-&catid=159:hp-tac-ao-to-quc-t&Itemid=219) , hoặc chỉ cần vào Google gõ các từ khóa: Học bổng, Trung Quốc, Đài Loan, sẽ tìm ra hàng loạt kết quả về các chương trình học bổng này.
[9] Tham khảo “Quy định V/v Học ngoại ngữ hai trong chương trình đào tạo
chính quy theo hệ thống tín chỉ trường Đại học Hoa Sen áp dụng từ khóa 2012 trở
về sau” (xem tại: http://www.hoasen.edu.vn/sites/default/files/2012/09/user63/quy_dinh_hoc_ngoai_ngu_hai_ap_dung_tu_khoa_2012_tro_ve_sau.pdf
), và “Chương trình đào tạo các ngoại ngữ” của Trung tâm Ngoại ngữ - Trường ĐHKHXH và NV (xem
tại: http://cfl.hcmussh.edu.vn/index.php/chuong-trinh-dao-tao/chng-trinh-ao-to-cac-ngoi-ng
)
[10] Nói thêm: Được biết, bắt đầu ngày 1/1/2013, Luật giáo
dục đại học chính thức có hiệu lực, Luật này có nhiều điểm đổi mới, trong đó có
“Tự do lựa chọn chương trình”, tức Bộ Giáo dục và Đào tạo không quy định chương
trình khung như những năm trước đây. Vậy chúng ta có thể giảm số tiết các môn
triết học tư tưởng chính trị mang tính hàn lâm nặng nề, tăng cường môn ngoại ngữ.
Thực tế cho thấy, một sinh viên bất kì ngành không chuyên ngoại ngữ nào, nếu
không biết một ngoại ngữ hoặc khả năng giao tiếp ngoại ngữ yếu, thì cơ hội kiếm
việc rất ít/hoặc rất khó so với người có khả năng giao tiếp ngoại ngữ. Kinh
nghiệm thực tế cho thấy, nếu biết kết hợp giữa một ngành nghề nào đó, với khả
năng giao tiếp ngoại ngữ, thì cơ hội nghề nghiệp rất lớn. Xu thế hội nhập,
chính là xu thế … bên cạnh giỏi về chuyên môn, tầm nhìn vấn đề, thì còn phải biết
dùng ngoại ngữ trực tiếp đàm phán, giao lưu, trao đổi với đối tác nước ngoài.
Nói một cách đơn giản hơn, bên cạnh chuyên ngành, biết sử dụng thêm một ngoại
ngữ vẫn là một lợi thế lớn. Điều đáng buồn là hiện nay không rõ vì lí do gì mà
tại TVU lại hạ tổng số tín chỉ ngoại ngữ không chuyên xuống với mức quá thấp.
Chúng ta có thể nghe một vài doanh nghiệp hoặc khách hàng phản ánh trình độ tiếng
Anh của sinh viên không chuyên tại trường ta, nhưng đã có ai làm khảo sát so
sánh trình độ đầu ra tiếng Anh không chuyên giữa TVU với trường khác chưa? Nếu
có, khi so sánh cũng cần so sánh trình độ đầu vào của sinh viên trường này và
trường khác, cũng như cần so sánh học phí giữa các trường, mức trả thù lao 1 tiết
cho giảng viên giữa các trường. Tôi cho rằng nếu làm được như vậy, mới có thể
thấy được sự cố gắng của các giảng viên ngoại ngữ tại TVU. Một điều cần khẳng định,
với tổng số 10 tín chỉ này, thì quả thực học như một kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”
mà thôi.
[11] Chúng ta nên tận dụng học
bổng với số lượng lớn hàng năm của chính phủ Trung Quốc trao cho giảng viên Việt
Nam được Bộ giáo dục và đào
tạo Việt Nam
gửi về các trường hàng năm. Tôi nhận thấy, tại TVU rất “thờ ơ” với học bổng của
nước lớn này, trong lúc nhiều trường đại học lớn ở Việt Nam lại rất biết tận dụng
nguồn học bổng này của phía chỉnh phủ Trung Quốc, không hiểu vì lí do gì?
Đăng nhận xét