Do tầm nhận thức hay dân tộc tính, không ít ‘bậc tiền bối’ ở ta ra sức vận động
‘kẻ hậu bối’ cố gắng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” bằng cách khuyên họ
biến những từ Hán Việt thành từ/cụm từ thuần Việt, chẳng hạn như ‘trực thăng’, thì khuyên nói thành ‘máy bay lên thẳng’, ‘phụ huynh’ thì nói thành ‘bố mẹ học trò’, ‘tư duy’, thì nói thành ‘suy
nghĩ’, ‘Thủ tướng và phu nhân’,
thì nói thành ‘Người đứng đầu CP và vợ’…
vậy với những từ này chúng ta có cần thiết phải thay thế chúng không? Câu hỏi
đã sẵn câu trả lời. Và cũng phải nói ngay rằng không chỉ những từ vừa được liệt
kê trên, mà trên thực tế còn vô vàn từ Hán Việt chúng ta không thể tùy tiện thay
thế kiểu như thế được. Theo PGS.TS Trịnh
Khắc Mạnh, Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán – Nôm cho biết tỉ lệ tiếng
Việt gốc Hán chiếm tới khoảng 75% trong các văn phạm. Vì thế có thể khẳng định:
Từ Hán Việt là một bộ phận lớn, không thể tách rời trong tiếng Việt. Tiếc là, hiện nay không ít phần tử trong xã hội ta, kể cả
sinh viên đại học – rường cột tương lai của đất nước lại không/hiếm có cơ hội học
hoặc không chịu khó học từ Hán Việt. Bài viết dưới đây của tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Ba sẽ bàn về một khía
cạnh của vấn đề này. Xin giới thiệu đến những ai quan tâm.
1. Một giáo viên môn Sử hỏi tôi, “Anh ơi, sao gọi là ‘phe đồng minh’
vậy anh? Chữ minh đó có cùng nghĩa với từ minh trong cụm từ ‘Mặt trận
Việt Minh’ không?” Tôi trả lời, “Cả hai chữ minh đó có
cùng nghĩa là thề nguyền/ lời thề, đồng minh là cùng thề với nhau theo
đuổi một lập trường, một lý tưởng, một mưu đồ… nào đó.” Luôn thể, tôi
hỏi lại anh bạn trẻ, “Thế từ minh trong các cụm từ ‘rừng
U minh thượng’, ‘bài minh trên chuông’, ‘loan phụng hoà minh’ hay
‘quang minh chính đại’ có nghĩa gì, giống hay khác nhau?”. Anh bạn trẻ
kêu lên, “Tiếng Việt ta khó quá, em bó tay chấm com mất. Có
ai dạy cho em mà em biết, thường nói theo thói quen, theo tập quán mà
thôi.”
NPT
Những cụm từ được nêu trên có lẽ cũng không mấy xa lạ với chúng ta. Có
từ được nói hằng ngày mà đôi người không cố hiểu được cho đến nơi đến
chốn. Hơi cường điệu một chút, theo ý tôi, phần lớn giới
trẻ bây giờ có lẽ e cũng bó tay theo anh bạn trẻ đó. Phải chăng vì
chúng là từ Hán Việt nên chúng ta không nhọc lòng quan tâm đến? Cứ nói
thuội theo báo đài sách vở là được.
Nhà báo thời danh Nguyễn Văn Vĩnh
Thế còn từ thuần Việt thì sao? Có lần vào đầu năm học, tôi gọi điểm
danh học sinh đến em Hà Văn Cau thì cả lớp cười ồ lên. Tôi hơi ngạc
nhiên. Tiếp đến, qua vài em khác đến em Trần Thị Mè thì cả
lớp lại cười ồ một lần nữa. Hoá ra, bên cạnh Phương Dung, Quang Huy,
Thu Tuyết,.. thì Cau và Mè xem ra cũng hơi lép vế và khôi hài. Đó là
chuyện vài học sinh nông thôn. Còn ở thành phố, con cái của
các bậc thị dân khoa bảng, các thương nhân giàu có, hay của cả các
người bình dân dứt khoát không thể là Nguyễn Thị Trăng Thu, Phạm Văn
Trời Sáng được, nói chi đến Rau, Đậu, Mè, Vừng…. Chúng phải
là Nguyễn Trần Thu Nguyệt hay Phạm Võ Nhật Quang, tên sao phải nghe
trang trọng, oai vang chứ nôm na mách qué là không xong rồi. Ở đây,
chúng ta lại quá tả, quá trọng thị từ Hán Việt. Vì thế, tôi
thỉnh thoảng được các bố mẹ trẻ tư vấn khi đặt tên con, họ sợ cái tên
nghe kêu ấy lại thậm không có chút ý nghĩa gì hết, mất hay.
2. Hai trường hợp trên nêu lên một hiện trạng bất nhất đang diễn ra trong việc sử dụng tiếng Việt của người Việt: Thích dùng từ Hán Việt mà không chịu học từ Hán Việt. Trong một bản tin dự
báo thời tiết gần đây tôi nghe được, nhà đài báo rằng ngày mai một luồng không khí lạnh sẽ bổ sung cho khí hậu ở vùng Đông Bắc Bộ và trong tuần tới một cơn gió mạnh cấp 6 sẽ tập
kích miền Nam Trung Quốc… Chúng ta thường nói bổ sung lực lượng
(vì thiếu hụt), bổ sung kiến thức (vì chưa đủ)… chứ làm sao mà bổ sung
cái khí lạnh khổ sở đó vào miền Bắc của chúng ta được.
Tương tự thế, hiện tượng thiên nhiên gió bão không xảy ra nơi này thì
xảy ra nơi kia làm sao lại cố ý tập kích (đánh úp) vào xứ Trung Quốc
thế. Xét cẩn thận hơn nữa thì từ tập trong từ
tập kích và từ tập trung hoàn toàn khác nhau đấy.
Chúng ta phải công nhận một sự thật lịch sử: từ Hán Việt là một thành phần bất khả phân ly của tiếng Việt.
Từ chối nó là đi ngược với qui luật phát triển của ngôn ngữ và làm
nghèo đi tiếng
Việt của chúng ta. Chúng ta đã dùng từ Hán Việt cả hơn ngàn năm, nên
không còn có thể khước bỏ nó được. Lấy ví dụ, ai lại thay thế cụm từ “gia đình hạnh phúc”
bằng “cả nhà sung sướng”. Cả
nhà đó dù thiếu thốn (không sung) và vất vả (không sướng) nhưng họ yêu
thương, chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau thì họ vẫn là một gia đình
hạnh phúc như thường.
Có trường hợp ngược lại, dù có từ thuần Việt tương đương, chúng ta
cũng không dùng được trong trường hợp nhằm diễn tả sự tôn trọng. Ví dụ
như thay vì nói vua nước Thái và vợ sẽ đến thăm Việt Nam
vào tuần tới, chúng ta nên nói Quốc vương Thái Lan và hoàng hậu sẽ đến
thăm … Tự bao giờ, từ Hán Việt được khoác cái ý nghĩa quý phái, trang
trọng và cung kính. Ví dụ nữa, từ “tiền nhân” lại dường
như có nghĩa kính trọng hơn là từ “người đời trước”.
Bên cạnh tình trạng đáng tiếc thường xảy ra trên, nếu không bàn đến
các từ mượn từ các ngôn ngữ khác thì tôi e rất thiếu sót, nhất là từ
tiếng Pháp và tiếng Mỹ. Thoạt đầu, chúng ta vay mượn hầu để
diễn tả những vật/ khái niệm chưa có như xà phòng (savon), nhà ga (la
gare), bơ (le beurre), mát xa (massage), sâm banh (champagne) … Về sau,
dù có từ thuần Việt sẵn rồi, chúng ta lại thu nhập một
số từ cho oai như tin hot, tuổi teen, các fan … Thậm chí có cuộc thi
hoa hậu khá sôi nổi lại mang tên là Miss Teen như là đang xảy ra bên xứ
Mỹ vậy.
Nhìn vào thực tế, việc sử dụng tiếng Việt ta ngày nay đã trở nên xô bồ
và không tuân thủ một số qui tắc thông thường. Nếu kể ra thì không biết
là bao nhiêu ví dụ. Ví dụ, từ gov thì được phát âm là
gờ o vê thay vì giê ô vê hay gờ o vờ; nữ anh hùng trong khi từ ‘hùng’
có nghĩa là giống đực; hơi bị hay thay cho khá hay,… Thậm chí một quan
chức phát biểu trong nghị trường đại khái rằng làm ăn
kinh tế thì có phi vụ (chuyến bay) thất bại là thường. Hẳn ông ta
không biết rằng phi vụ là tiếng lóng dành cho việc làm ăn phi pháp của
gian thương xã hội đen, chứ làm ăn chân chính xã hội chủ
nghĩa thì phải gọi là thương vụ. Thật là một nhầm lẫn chết người.
Vậy nói, viết cũng cần có luật lệ là hiển nhiên.
3. Đúng là ngôn ngữ có tính võ đoán, dùng lâu dài sẽ trở thành phổ
thông và chính thống, nhưng có điều quan trọng chúng ta nên thấy là sử
dụng tiếng nói của dân tộc ta giỏi làm chúng ta yêu đất
nước chúng ta hơn. Vì sao vậy? Tôi rất đồng tình với nhận định của một
số nhà nghiên cứu rằng tình yêu nước chủ yếu dựa vào tiếng nói của dân
tộc sống trong nước đó. Quốc gia không chỉ là một vùng
lãnh thổ hữu hình mà còn cả một nền văn hoá phi vật thể đồ sộ của
người dân sống trên đó. Chính nói cùng tiếng nói gắn kết những con người
đó với nhau, làm họ hiểu nhau, thấy cái đẹp của nòi giống
mình, và muốn sống cạnh nhau. Thông qua tiếng nói rồi về sau là chữ
viết, người dân cùng chung một ký ức văn hoá, chung một lịch sử đấu
tranh, chung mộtniềm tin dân tộc, … khiến họ trở thành một
khối thống nhất dù khác huyết thống, trình độ kinh tế, tập tục,…. Từ
đó, tình yêu cái khối thống nhất đó, có tổ chức quản lý, tạo nên truyền
thống và xây dựng một niềm tự hào dân tộc, là cái cốt
lõi của tình yêu nước. Ta thường thấy mọi quốc gia đều cố thống nhất
tiếng nói, chữ viết để củng cố sức mạnh của đất nước là vì vậy.
Với các quốc gia đa sắc tộc, một tiếng nói, một loại chữ viết được
chọn làm chủ đạo, thường là của sắc tộc mạnh nhất và được gọi là ngôn
ngữ hay chữ viết chính thức. Ở nước ta là tiếng Kinh, chữ
Việt. Không sành sõi tiếng mẹ đẻ thì tình yêu nước chỉ là một phản ứng
tự vệ có tính bản năng. Chính sành sõi tiếng mẹ đẻ làm tình yêu nước
nồng nàn hơn, làm ta yêu được những người khác với ta lắm
thứ, sống vào một thời, một nơi xa ta rất nhiều, mà bởi chỉ vì cùng
tiếng nói. Một anh chàng đen đủi to cao sống tận châu Phi gần cả một đời
lại oà ra khóc khi nghe được tiếng Việt, hoá ra mẹ anh
ta là người Việt. Cái sợi giây thiêng liêng kết nối anh ấy với quê mẹ
chính là tiếng nói vậy.
4. Nhạc sĩ Phạm Duy từng viết, “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra
đời, người ơi! Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi! Tiếng ru muôn đời.
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui. Khóc cười
theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi! Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc
nằm nôi. Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!...” Vâng, từ
tiếng nói khi nghe đầu đời rồi qua ngàn năm thành tiếng
ru muôn đời và thành tiếng lòng tôi. Nhạc sĩ Phạm Duy viết thế quả rất
súc tích. Nếu ta không thấm cái vẻ đẹp của đất nước qua tiếng nói đặc
thù của dân tộc thì làm sao mà có một lòng yêu nước cháy
bỏng và tha thiết được.
Nhà báo thời danh Nguyễn Văn Vĩnh năm 1907 trong lời tựa của Truyện Tam Quốc Chí do Phan Kế Bính dịch đã có câu nói bất hủ: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”.
Rõ
ràngcụ đã nhận thấy dù dân ta có cải lương y phục, nhà cửa, lề thói, …
để thích nghi với tiến bộ Âu Tây như hiện nay mà còn giữ được tiếng
Việt thì vẫn còn là con người Việt, có bản sắc riêng. Tầm
quan trọng của tiếng nói là thế đó.
Một Việt kiều thế hệ thứ 2 nếu không biết nói đọc tiếng Việt thông
thạo hẳn khó mà có được một lòng yêu nước nồng nàn. Điều dễ hiểu là bởi
anh ta bị cắt rời khỏi tâm thức dân tộc, không có lòng tự
hào về dân tộc mình. Một người dân Việt không sành sõi tiếng Việt,
không hiểu được văn hoá Việt, nói chêm lung tung tiếng nước ngoài thì
cũng như Việt kiều trên thôi.
Trừ phi ai đó nói liều rằng chỉ cần tình nhân loại thôi, đừng nên bảo
thủ hẹp hòi trong phạm vi quốc gia nhỏ bé, giỏi tiếng mẹ đẻ vẫn là điều
tiên quyết để yêu đất nước sâu đậm thiết tha hơn. Tình
trạng sử dụng tiếng Việt ta hiện nay là thế. Làm sao dạy cho con cháu
ta giỏi tiếng mẹ đẻ, rồi từ đó yêu đất nước hơn là một nhiệm vụ cấp
thiết của các giới chức hữu quan.
Đó lại là một vấn đề khác.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
Theo Tạp chí VHPG, số 173
Đăng nhận xét