Qua kinh nghiệm thực tiễn trong nghề phiên dịch cũng như giảng dạy 
ngoại ngữ nói chung và môn dịch (Anh - Việt / Việt - Anh) nói riêng, và 
qua tham khảo một số chuẩn đạo đức nghề nghiệp / quy tắc ứng xử ở các 
nước (professional ethics / code of conduct) đối với nghề phiên dịch, 
chúng tôi nhận thấy khi tuyển chọn sinh viên phiên dịch và chương trình 
đào tạo phiên dịch cần phải lưu ý tới những tiêu chí và kĩ năng sau:
Công tác phiên dịch thường được chia làm hai loại hình chính: dịch kế
 tiếp (consecutive interpretation), tức là diễn giả nói một câu, một 
đoạn hoặc một ý nào đó rồi ngừng để phiên dịch dịch sang ngôn ngữ đích; 
và dịch song song (dịch đồng thời hoặc dịch cabin - simultaneous 
interpretation), khi diễn giả và phiên dịch cùng trình bày (hầu như) 
cùng một lúc. Trong cả hai loại hình, khả năng ghi nhớ của phiên dịch 
rất quan trọng, nhất là trong loại hình thứ nhất. Nếu không có khả năng 
ghi nhớ, cho dù là trong "trí nhớ ngắn hạn" (short-term memory), phiên 
dịch sẽ không thể truyền đạt được trọn vẹn ý của diễn giả. Muốn ghi nhớ 
được, phiên dịch cần phải được rèn luyện nhiều để vừa phân tích, vừa 
tổng hợp, vừa sắp xếp thông tin nghe được theo một lôgíc, cấu trúc nhất 
định, bởi không bao giờ có thể nghe và nhớ hết từng lời của diễn giả 
được. Phải "bắt được cái mạch" ý tưởng của diễn giả. Như vậy, gắn liền 
với khả năng ghi nhớ là khả năng đoán ý, nắm bắt được tinh thần diễn giả
 muốn truyền đạt và dự đoán những thông tin tiếp theo diễn giả sẽ trình 
bày căn cứ vào những gì đã tiếp nhận được. Dĩ nhiên, tất cả những điều 
này phụ thuộc vào khả năng nghe hiểu của phiên dịch, cả nghe hiểu ngoại 
ngữ lẫn bản ngữ.
Đối với sinh viên, không phải sinh viên nào nghe cũng giỏi, nhớ cũng 
tài. Ngay cả nhiều giáo viên ngoại ngữ có trình độ nghe hiểu ngoại ngữ 
rất tốt nhưng không có trí nhớ tốt nên cũng không thể làm phiên dịch 
được. Ngoài ra, không phải sinh viên nào cũng có thể huấn luyện được về 
trí nhớ. Như vậy, tiêu chí đầu tiên trong công tác tuyển chọn sinh viên 
phiên dịch phải là khả năng ghi nhớ của họ.
Để lựa chọn "đúng người" đưa vào đào tạo, cần có phần kiểm tra khả 
năng này, có thể chỉ là một đoạn thông tin ngắn vài ba câu bằng tiếng 
Việt và yêu cầu họ truyền đạt lại. Còn sau này, trong quá trình đào tạo 
sẽ phải huấn luyện họ liên tục. Thời gian đầu có thể chỉ là những bài 
nghe đơn giản, ngắn trong vòng khoảng 100 - 200 từ và yêu cầu sinh viên 
trình bày lại, cả bằng dạng nói và viết. Đây là phương thức mà chúng tôi
 được đào luyện ngay từ học kì đầu của năm thứ nhất đại học chuyên ngành
 tiếng Anh: sinh viên nghe một câu chuyện vui ngắn (thường lấy từ cuốn Stories for Reproduction
 của L.A. Hill), sau đó kể lại cho nhau, bổ sung cho nhau những chi tiết
 còn thiếu, chỉnh sửa cho nhau, hoặc viết lại rồi trao đổi cho nhau để 
sửa chữa hoặc nộp lại cho giáo viên chấm. Lúc đó chúng tôi không thể 
hiểu hết tác dụng của loại bài tập này, song sau này vào nghề phiên dịch
 mới thấy chúng có hiệu quả đến mức nào trong việc rèn luyện kĩ năng 
nghe hiểu, ghi nhớ và tái tạo từ những cái nhỏ nhất. Thực tế hiện nay 
nhiều giáo viên giảng dạy ngoại ngữ chủ yếu chỉ luyện cho sinh viên một 
số kĩ năng nghe cơ bản như nghe để điền thông tin vào bảng biểu, nghe để
 xác định thông tin đúng/sai, nghe và làm theo hướng dẫn nào đó hoặc trả
 lời một vài câu hỏi ngắn. Họ ít chú ý bắt sinh viên phải tái tạo lại 
những gì nghe được. Đối với kĩ năng nghe hiểu trong giảng dạy ngoại ngữ 
theo phương pháp giao tiếp thì như thế có thể là đủ (chủ yếu là kĩ năng 
tiếp nhận - receptive skill). Tuy nhiên, trong đào tạo phiên dịch, tái 
tạo (reproductive skill) lại là một kĩ năng quan trọng cần được thường 
xuyên thực hành.
Tiêu chí thứ hai: Phát âm, giọng nói
Người phiên dịch đòi hỏi phải có giọng nói tốt, phát âm chuẩn, "tròn 
vành rõ chữ", cả trong bản ngữ lẫn ngoại ngữ, vì họ phải nói cho nhiều 
người, rất nhiều người nghe. Về tiếng Việt, cần tuyển lựa những sinh 
viên phát âm rõ, không ngọng, giọng nói đủ vang, vì có nhiều trường hợp 
phiên dịch phải dịch mà không có phương tiện âm thanh trợ giúp. Về tiếng
 Anh, trong quá trình đào tạo cần rèn luyện cho sinh viên phát âm từng 
âm từng từ một cách chuẩn xác, sau đó là trọng âm, ngữ điệu, và đặc biệt
 rèn luyện ngữ điệu biểu cảm. Lời nói vô cảm sẽ rất buồn tẻ và nặng nề 
đối với người nghe, bởi ở nhiều hội nghị không khí thường bị nặng nề với
 những bài báo cáo dài, khô khan, một chiều, báo cáo này nối tiếp báo 
cáo kia. Phiên dịch cần nói sao cho sinh động, truyền cảm và dễ chịu đối
 với người nghe, song tất nhiên cũng không nên thái quá (over-acting), 
không thể hiện trung thành tinh thần, thái độ của diễn giả.
Trong suốt quá trình đào tạo, cần lựa chọn một cách phát âm thống 
nhất để rèn luyện cho sinh viên: hoặc tiếng Anh-Anh (British English), 
hoặc tiếng Anh-Mĩ (American English), hoặc tiếng Anh-Úc (tất cả đều phải
 là ngôn ngữ chuẩn - standard language), bởi thực tế trong ngôn ngữ nào 
cũng có rất nhiều phương ngữ và không phải phương ngữ nào cũng dễ hiểu, 
như chúng ta vẫn thấy ngay trong tiếng Việt. Phát âm chuẩn còn quan 
trọng hơn ngữ pháp và từ vựng rất nhiều: người ta có thể nói sai ngữ 
pháp, dùng từ không chuẩn nhưng người nghe vẫn có thể hiểu được ít 
nhiều, nhưng phát âm a thành b, b thànhc thì rất dễ
 khiến người nghe không hiểu, hoặc hiểu nhầm. Chúng tôi đã nhiều lần 
phải dịch cho diễn giả mà phải rất vất vả mới "đoán" được họ nói gì, đơn
 giản chỉ vì phát âm của họ (chẳng hạn như một số người Ấn Độ, Sri 
Lanka, Nhật Bản, kể cả một số người Việt nói tiếng Anh không tốt).
Tiêu chí thứ ba: Trình độ chuyên môn (ngoại ngữ và chuyên ngành liên quan)
Phiên dịch cần nhiều loại kiến thức: ngôn ngữ, văn hoá, kiến thức phổ
 thông hay kiến thức nền (general or background knowledge) và kiến thức 
chuyên môn. Họ cần phải thông thạo, có vốn từ vựng phong phú, hiểu biết 
thấu đáo những vấn đề ngôn ngữ học của cả hai ngôn ngữ, hiểu biết những 
tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ không những chỉ về ngữ pháp mà
 còn về ngữ nghĩa và ngữ dụng. Những hiểu biết đó gắn chặt với tri thức 
văn hoá về đất nước, con người, lối sống, thói quen, phong tục tập quán 
của hai cộng đồng ngôn ngữ. Đến lượt chúng, tri thức văn hoá lại phải 
dựa trên một nền tảng tri thức bách khoa vững chắc và liên tục được cập 
nhật. Cuối cùng, mỗi một chuyên ngành có những thuật ngữ, cách diễn đạt 
riêng, phong cách riêng, đòi hỏi người làm công tác dịch thuật phải hiểu
 được chí ít là ý nghĩa, nội hàm của chúng, dẫu rằng không thể sâu như 
một nhà chuyên môn. Do vậy, sinh viên phiên dịch rất cần được đào tạo 
sâu về tiếng Việt và lịch sử, văn hoá Việt Nam cũng như những vấn đề 
tương tự của nước nói ngoại ngữ họ đang học. Đồng thời cần trang bị cho 
họ kiến thức chuyên ngành mà sau này họ sẽ phải làm việc, ít nhất cũng 
là những kiến thức cơ sở, cơ bản nhất của chuyên ngành đó. Tất nhiên khó
 có thể đề cập được nhiều chuyên ngành nên cần phải lựa chọn những 
chuyên ngành cơ bản, có nhu cầu sử dụng cao để giảng dạy.
Khi tuyển chọn, cũng cần kiểm tra kiến thức nền của sinh viên, những 
kiến thức họ đã được học ở các bậc học trước xem họ nắm được đến đâu, từ
 đó có kế hoạch bồi dưỡng, bổ sung trong chương trình đào tạo phiên 
dịch.
Tiêu chí thứ tư: Kĩ năng thuyết trình và khả năng diễn thuyết trước công chúng (public speaking)
Được tham dự nhiều hội nghị, và quan sát diễn giả trong một số chương
 trình truyền hình như SV96 hay những cuộc thi trong đó thí sinh phải 
thi hùng biện, chúng tôi nhận thấy khả năng diễn thuyết trước công chúng
 của nhiều người Việt nói chung còn yếu và kĩ năng thuyết trình hầu như 
chưa được đào luyện một cách chính thức và bài bản ở các cấp học, kể cả ở
 bậc đại học và sau đại học. Đối với phiên dịch, đặc biệt là phiên dịch 
kế tiếp (consecutive interpreter) cho các lớp đào tạo, tập huấn, kĩ năng
 thuyết trình và khả năng diễn thuyết lại cực kì quan trọng bởi vì trách
 nhiệm của phiên dịch lúc ấy không chỉ là truyền đạt ngôn từ của diễn 
giả mà còn phải biểu đạt cả những ý tưởng, những điểm nhấn, những thái 
độ, quan điểm diễn giả muốn trình bày. Tất cả đều phải được thể hiện một
 cách tức thời, trước mặt đông đảo người nghe, đúng như những gì diễn 
giả thực hiện. Nói cách khác, phiên dịch đòi hỏi phải là một bản sao 
"nguyên mẫu" của diễn giả. Do vậy, cần hết sức chú trọng huấn luyện kĩ 
năng thuyết trình và khả năng diễn thuyết cho sinh viên phiên dịch. 
Những kĩ năng, khả năng này gắn liền với sự rèn luyện trí nhớ và tư duy 
lôgíc đã nói trong tiêu chí thứ nhất ở trên.
Tiêu chí thứ năm: Sự nhanh nhạy
Tương tự như tiêu chí thứ tư, cũng gắn liền với tiêu chí thứ nhất về 
trí nhớ và tư duy lôgíc là sự nhanh nhạy cần có của một người phiên 
dịch. Người phiên dịch cần phải nhanh chóng nắm bắt nội dung ý tưởng 
diễn giả muốn trình bày, nhanh chóng học hỏi và ghi nhớ những từ ngữ, 
thuật ngữ, đặc ngữ mà diễn giả sử dụng, nhất là những từ chuyên môn đặc 
thù trong bối cảnh sử dụng cụ thể mà nhiều khi không thể tìm thấy nghĩa 
tương đương trong từ điển.
Do áp lực về thời gian, sai sót hoặc nhầm lẫn trong quá trình dịch là
 không thể tránh khỏi, song người phiên dịch cần phải nhanh chóng phát 
hiện ra những chỗ bỏ sót, khiếm khuyết hoặc thiếu chính xác đã phạm ấy 
để kịp thời chỉnh sửa, bổ sung trong những câu dịch tiếp theo, hạn chế 
tối đa sự hiểu lầm, sai lệch thông tin diễn giả truyền đạt.
Sự nhanh nhạy của người phiên dịch còn thể hiện ở chỗ phải biết lựa 
chọn ngôn từ, phong cách phù hợp với bối cảnh sử dụng, với đối tượng 
người nghe. Một từ/ngữ trong ngôn ngữ này có thể có nhiều từ/ngữ tương 
đồng (nhưng chưa chắc đã tương đương) trong ngôn ngữ kia và ngược lại, 
do đó rất cần người phiên dịch có sự lựa chọn đúng đắn, và sự lựa chọn 
này phải được thực hiện dưới áp lực rất lớn về thời gian. Xin kể lại một
 kinh nghiệm: mới đây chúng tôi được tháp tùng một đoàn cán bộ của Bộ 
Tài nguyên & Môi trường tới thăm Đại học Imperial ở thủ đô Luân Đôn.
 Khi mới tới, ông Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường của Đại học 
Imperial (có lẽ lúc đó chưa nắm rõ thành phần của đoàn) ăn mặc "lịch sự ở
 mức bình thường" (smart casual) và chào hỏi với phong cách xã giao và 
cấu trúc câu, ngôn từ khá đơn giản, đời thường. Tuy nhiên, sau khi được 
giới thiệu thành phần trong đoàn và Trưởng đoàn là Thứ trưởng Bộ TN 
& MT, lập tức ông cáo lỗi và 5 phút sau quay lại với đầy đủ trang 
phục chỉnh tề (com-lê, cà vạt), trang trọng, và từ đó tới hết buổi tiếp,
 ông dùng những cấu trúc câu khá bóng bẩy, ngôn từ trau chuốt với phong 
cách "rất ngoại giao" (nói nôm na là he used "posh" - highly formal language)
 nhưng cũng rất cởi mở, nhiệt tình và chân thành. Chúng tôi đã phải hết 
sức vất vả tìm cách tái hiện phong cách ngôn ngữ của vị Giám đốc này sao
 cho đúng tinh thần và thái độ trân trọng ông chủ định thể hiện một cách
 hiển ngôn (explicitly) đối với đoàn Việt Nam. Qua kinh nghiệm này, 
chúng tôi thấy trong quá trình đào tạo, cần chú trọng giúp sinh viên 
phân biệt được các phong cách ngôn ngữ, các ngữ vực (register) và biết 
lựa chọn sử dụng ngôn từ phù hợp với từng phong cách, ngữ vực trong ngữ 
cảnh cần thiết.
Nhạy cảm về văn hoá cũng là một mặt quan trọng trong tiêu chí "nhanh 
nhạy" của người phiên dịch. Như nhiều dịch giả đã nhấn mạnh, người phiên
 dịch phải là một cầu nối về văn hoá giữa những người nói những ngôn ngữ
 khác nhau. Thiếu kiến thức, thiếu nhạy cảm về văn hoá, người phiên dịch
 khó có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình, hoặc có thể dẫn tới những vấn 
đề đáng tiếc. Xin lấy một ví dụ (rất xin lỗi độc giả cũng như người có 
tên như sau): một từ trong ngôn ngữ này có thể trùng với một từ "huý" 
hay "tục" trong ngôn ngữ kia và ngược lại, chẳng hạn như cái tên Căn 
trong tiếng Việt. Những lúc gặp trường hợp phải giới thiệu một người có 
tên Lê Văn Căn, chúng tôi phải đọc chệch đi trong tiếng Anh một chút như
 Can (trong I can speak English). Một trường hợp khác, diễn giả nước ngoài đã nhầm lẫn và nhắc đi nhắc lại là This
 project was implemented in 2 provinces of Nha Trang and Khanh Hoa - Dự 
án này được triển khai ở 2 tỉnh Nha Trang và Khánh Hoà trong khi thực tế phải là Phú Yên và Khánh Hoà,
 vì Nha Trang là thành phố thuộc tỉnh Khánh Hoà chứ không phải một tỉnh 
riêng. Trường hợp đó buộc phiên dịch phải có sự nhạy cảm và điều chỉnh 
sơ suất của diễn giả cho đúng với thực tế.
Còn có thể dẫn ra nhiều trường hợp khác đòi hỏi người phiên dịch phải
 nhanh nhạy và có phản ứng kịp thời. Chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng 
đối với việc tuyển chọn sinh viên phiên dịch, cần phát hiện và lựa chọn 
đúng những sinh viên có khả năng này, hoặc chí ít là có tiềm năng đào 
tạo được (potential "trainability") để đảm bảo thành công của công tác 
đào tạo phiên dịch, và cần chú trọng rèn luyện, củng cố khả năng này của
 họ trong quá trình đào tạo.
Kĩ năng tốc kí
Mặc dù người phiên dịch buộc phải có trí nhớ tốt, song trong khi nghe
 cũng cần phải ghi chép lại những từ quan trọng, những điểm mấu chốt 
giúp cho việc tổ chức ý tưởng và tái tạo phần trình bày của diễn giả một
 cách suôn sẻ, đầy đủ. Trong quá trình phiên dịch, chúng tôi thấy việc 
nghe, hiểu, nhớ và chuyển dịch các con số từ tiếng Anh sang tiếng Việt 
và ngược lại không phải là việc dễ dàng. Đặc biệt, có những con số mà 
cách thức diễn đạt của hai ngôn ngữ rất khác biệt, chẳng hạn: năm 1900 tiếng Việt nói là một ngàn chín trăm trong khi tiếng Anh lại hay nói là nineteen hundred - mười chín trăm; hoặc fifteen hundred students attended the meeting - mười lăm trăm sinh viên tham dự cuộc mít tinh trong khi tiếng Việt phải nói một ngàn rưởi/một ngàn năm trăm sinh viên tham dự cuộc mít tinh. Ngược lại, tiếng Việt thường có cách nói Hơn hai mươi vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc Việt Nam trong khi tiếng Anh phải dùng đến từ hàng trăm - Hơn
 hai trăm ngàn quân Tưởng kéo vào miền Bắc Việt Nam - Over two hundred 
thousand Chiang Kai-sek troops drew into the North of Vietnam. Sự vênh nhau về số đếm giữa tiếng Việt và tiếng Anh: một bên là một nghìn năm trăm, một bên làmười lăm trăm;một bên làhai mươi vạn, một bên là hai trăm ngàn
 không ít lần làm chúng tôi hết sức lúng túng.Vừa nghe, lại vừa phải ghi
 thật nhanh không chỉ các con số mà còn cả từ ngữ, luận điểm - điều đó 
đòi hỏi người phiên dịch phải có kĩ năng tốc kí (stenography). Như vậy, 
rất cần phải đưa kĩ năng tốc kí vào thành một môn học trong chương trình
 đào tạo phiên dịch.
Rèn luyện Đạo đức Nghề nghiệp
Nghề nào cũng có những chuẩn đạo đức hay quy tắc ứng xử (professional
 ethics hoặc code of conduct) riêng của nó. Nghề phiên dịch cũng vậy. 
Hiện nay có khá nhiều bộ chuẩn đạo đức phiên dịch như bộ chuẩn của Cục 
Nhập cư và Tị nạn Canada (Immigration and Refugee Board of Canada), CALS
 (Community access and language service) của Anh, Hội đồng Dân tộc thiểu
 số Bắc Ai-len (Northern Ireland Council for Ethnic Minorities), Toà án 
tiểu bang Washington của Hoa Kì, v.v.
Trong những tài liệu như trên, có rất nhiều yêu cầu, quy tắc bắt buộc
 người phiên dịch phải tuân thủ. Tựu trung lại, những bộ chuẩn đạo 
đức/quy tắc ứng xử này chú trọng sự trung thành của người phiên dịch đối
 với ngôn bản và ý tưởng, thái độ của người nói, sự không thiên vị 
(impartiality) đối với các bên đối thoại và đặc biệt không được thêm 
thắt các bình luận, nhận xét hay thái độ của cá nhân người phiên dịch 
vào lời dịch. Phiên dịch là phiên dịch, chứ không phải một bên tham gia 
cuộc đối thoại, tranh luận đang diễn ra đó. Đôi khi chúng tôi cũng gặp 
trường hợp phiên dịch "quên" mất vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình
 và đứng ra tranh luận như một đại biểu tham dự cuộc họp, hoặc "uốn" lời
 của diễn giả theo ý mình mà không truyền đạt trung thành lời nói của 
diễn giả. Bản thân chúng tôi nhiều lúc phải "nén mình" lại để thực hiện 
đúng chức trách của phiên dịch, mặc dù có nhiều điều rất bức xúc hoặc 
muốn đóng góp. Một trường hợp khác: có lần chúng tôi được mời đi phiên 
dịch cho một dự án ở một tỉnh, mặc dù ở tỉnh đó đã có phiên dịch chuyên 
nghiệp tại chỗ. Lí do đơn giản chỉ là vì trong một số cuộc họp trước, 
hai bên Việt Nam và nước ngoài có những điều không hiểu nhau, bên nước 
ngoài có những lời lẽ có thể gọi là "mắng" bên Việt Nam, và phiên dịch ở
 đó đã không dịch đúng nguyên bản bởi người bị "mắng" là xếp của anh ta 
và đương nhiên không thể "dám mắng xếp" mà phải đứng về phía xếp. Rốt 
cuộc là hai bên không đi đến thống nhất.
Sự trung thành và không thiên vị của người phiên dịch đặc biệt quan 
trọng trong những phiên toà. Một vài đồng nghiệp của chúng tôi đi phiên 
dịch cho toà án và cảnh sát ở Vương quốc Anh luôn luôn phải kí cam kết 
về những yêu cầu này và không được phép bênh vực cho bị can, bị cáo, mặc
 dù đó là những đồng bào của mình. Họ cũng có những biện pháp kiểm soát 
chất lượng của phiên dịch, và nếu phiên dịch vi phạm những quy tắc ứng 
xử nghề nghiệp thì sẽ bị xử lí thích đáng, hoặc đơn giản là mất việc - 
đồng nghĩa với việc mất "cần câu cơm".
Trong quá trình đào tạo sinh viên phiên dịch, chúng tôi thiết nghĩ 
phải giới thiệu những bộ quy tắc ứng xử/chuẩn đạo đức nghề nghiệp này và
 đòi hỏi sinh viên phải liên tục rèn luyện nếu họ muốn thực sự trở thành
 một người phiên dịch chuyên nghiệp theo đúng nghĩa của nó.
Trên đây là một vài đề xuất và lưu ý của chúng tôi đối với việc tuyển
 chọn và đào tạo sinh viên phiên dịch. Hi vọng những tiêu chí và lưu ý 
này sẽ được các thầy cô, anh chị em đồng nghiệp và các bạn sinh viên say
 mê nghề phiên dịch quan tâm và áp dụng nếu thấy hợp lí và hữu ích.
• Lâm Quang Đông 
Tài liệu tham khảo
- Interpreting Asia, Interpreting Europe. Dự án Asia Links, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Hà Nội), 2005.
 - Code of Conduct for Interpreters, truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2007.
 - Code of Conduct, truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2007
 - Nicem Code of Conduct for Interpreters, truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2007
 - Comments on the Code of Conduct, truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2007
 
___________________
(1) Thứ tự này không phản ánh trật tự ưu tiên từ quan trọng nhất tới kém quan trọng hơn mà chỉ để quý vị tiện theo dõi. 
Nguồn: http://ngonngu.net/index.php?p=338 

Đăng nhận xét