Xét về
lý tưởng, sự thay đổi duy nhất mà người dịch có quyền thực hiện là ngôn
ngữ, là thứ tiếng mà nguyên bản dùng để biểu đạt những ý nghĩa mà mình
muốn biểu đạt, nhiệm vụ của anh ta chính là dùng một thứ tiếng khác để
truyền đạt tất cả những cái gì đã được truyển đạt bằng thứ tiếng kia.
Dịch giả Cao Xuân Hạo
Năm 2004 có mấy cuộc hội nghị về dịch thuật tâp hợp
những chuyên gia có uy tín trong ngành này, phần lớn đều lấy ba tiêu
chuẩn TÍN, ĐẠT, NHÃ làm căn cứ để thảo luận, trao đổi. Hình như phần lớn
đều chỉ băn khoăn về chữ NHÃ - một nỗi băn khoăn mà chúng tôi nghĩ là
hoàn toàn chính đáng, vì chữ NHÃ hình như chỉ thích hợp với một văn
phong nhất định, và khó lòng có thể nói rằng “phàm là một bản dịch thì
nhất thiết phải có cái văn phong được gọi là “NHÔ. Nếu nguyên bản không
“nhã”, mà lại gồ ghề thô lỗ, thì bản dịch “nhã” chắc chắn là sẽ không
thực hiện được chữ “tín”, và sẽ nảy sinh một mâu thuẫn đối kháng ngay
trong nội bộ của tiêu chuẩn được đề ra.
Nhưng
như thế vẫn chưa hết. Ngay cả chữ ĐẠT cũng có một nội dung rất khó
hiểu, khiến ta phải tìm xem những người lấy chữ ĐẠT làm tiêu chuẩn, họ
hiểu chữ TÍN như thế nào. Nếu bản dịch hoàn toàn trung thành với nguyên
bản (TÍN), nhưng lại rất dở, trong khi nguyên bản là một kiệt tác của
văn học thế giới, thì lẽ nào có thể nói rằng đó là một bản dịch trung
thành? Người đọc bình thường chắc hẳn phải nẩy ra cái ý nghi ngờ rằng
người đặt ra tiêu chuẩn quan niệm chữ TÍN theo cái nghĩa là“sát từng
chữ”. Nhưng bất cứ người nào đã học qua một ngoại ngữ, dù chỉ trong buổi
học đầu tiên, cũng đã thấy ngay rằng dịch sát từng chữ là cách tốt nhất
để dịch sai hoàn toàn[i].
Dĩ
nhiên mỗi người có thể có một hay nhiều bí quyết riêng để dịch cho đúng
và cho hay theo thẩm năng của họ... Và quan trọng hơn nữa là mỗi người
có thể tự cho mình những cái quyền riêng trong cách hiểu, đánh giá và xử
lý một văn bản mà mình chọn. Chúng tôi có biết một dịch giả nổi tiếng,
có mấy mươi bản dịch được xuất bản nhiều lần, đánh giá một nhà văn như
Lev Tolstoy là “chưa biết viết văn” và tự ban cho mình cái quyền bỏ từng
đoạn dài mấy chục trang của tác giả, đồng thời tự cho mình cái quyền
không hiểu tác giả muốn nói gì trong hàng trăm trang khác!
Trong
bài này chúng tôi muốn tự bó hẹp trong phạm vi phiên dịch (translation)
hiểu theo nghĩa hẹp, gạt ra ngoài mọi công trình sáng tạo, dù vĩ đại
đến đâu. Vì vậy trước hết chúng tôi cố tìm một cách định nghĩa có cơ may
được nhiều người thừa nhận nhất. Đó là cách định nghĩa của M. Fyodorov
(1950): “Dịch là chuyển đạt một văn bản từ một ngôn ngữ này (nguồn)
sang một ngôn ngữ khác (đích) một cách trung thành trong chừng mực có
thể, cả về nội dung lẫn về hình thức.” Vậy, xét về lý tưởng, sự thay
đổi duy nhất mà người dịch có quyền thực hiện là ngôn ngữ, là thứ tiếng
mà nguyên bản dùng để biểu đạt những ý nghĩa mà mình muốn biểu đạt, và
nhiệm vụ của anh ta chính là dùng một thứ tiếng khác để truyền đạt tất
cả những cái gì đã được truyển đạt bằng thứ tiếng kia.
Vậy
“những cái đã được truyền đạt” mà người dịch có bổn phận truyền đạt lại
một cách trung thành ấy (chữ TÍN, và chỉ một chữ TÍN mà thôi!), là
những cái gì? Và người dịch phải có những cách thức nào, phải thực hiện
những thao tác nào để làm tròn cái bổn phận ấy? Dĩ nhiên, trả lời câu
hỏi này không đơn giản chút nào, vì ngôn ngữ là một thực thể hết sức đa
diện, khó lòng có thể phân tích thành một số khía cạnh hữu hạn. Sau đây
chúng tôi chỉ mong kể ra những bình diện cơ bản nhất của một văn bản
thông thường có thể làm đối tương cho công việc phiên dịch.
1. Thể loại
Một
văn bản, dù muốn dù không, cũng phải thuộc một thể loại nhất định, và
“tính thể loại” chính là cái mà người dịch phải truyền đạt trước tiên.
Tôi đã từng đọc một chồng bản dịch chuyện cổ tích trong đó người dịch
truyền đạt những nguyên bản dài từ 2 đến 12 trang thành những thiên tiểu
thuyết dài từ 200 đến 500 trang, và rất tự hào vì đã chuyển được những
chuyện cổ tích sơ sài buồn tẻ thành những pho tiểu thuyết ly kỳ hấp dẫn
đầy những chi tiết tinh vi và những đoạn đối thoại sắc sảo cho thấy một
vốn hiểu biết sâu rộng về tâm lý người đời, mà vẫn giữ được y nguyên cốt
chuyện của nguyên bản. Dịch giả từ biệt tôi với một nỗi tuyệt vọng khôn
xiết không phải đối với mấy ngàn trang tiểu thuyết của mình, mà đối với
sự kém cỏi của tôi, người đã không đủ sức hiểu cái giá trị tuyệt vời
của cái công trình mà ông đã bỏ ra bấy nhiêu công sức để thực hiện. Ba
mươi năm sau, khi chúng tôi gặp lại, vẫn chưa có một nhà xuất bản nào đủ
sáng suốt để công bố bộ sách của ông. Ai cũng trả lời ấp úng một câu vô
nghĩa: “Hay thì hay tuyệt, nhưng... nó thế nào ấy, không thích hợp
lắm”. Tôi trộm nghĩ: cái không thích hợp ở đây chính là tính thể loại.
2. Chuyển thể
Tôi
không hề phản đối việc chuyển thể - như đưa lên sân khấu (kịch nói,
kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương) hay màn ảnh, chuyển tiểu thuyết văn
xuôi thành trường ca có vần điệu, chuyển truyện ngắn thành ngụ ngôn,
chuyển chuyện cổ tích thành vè hay thành vũ kịch v.v., v.v. Có những tác
phẩm được chuyển thể thành công, có tác phẩm được chuyển thể không
thành công bằng. Tất cả đều lệ thuộc vào tài năng và công sức của người
thực hiện việc chuyển thể. Dù sao thì nhìn chung, qua việc chuyển thể
khó lòng tránh khỏi tình trạng mất mát một cái gì đó trong nguyên tác,
tuy không phải không có những trường hợp lệ ngoại quý giá, trong đó kết
quả của chuyển thể vượt hẳn nguyên tác về giá trị nghệ thuật. Những thí
dụ về trường hợp này, có lẽ bất kỳ bạn đọc nào cũng có thể tìm ra một
cách dễ dàng. Xin nhắc lại một lần nữa là chúng tôi đang nói đến dịch
thuật hiểu theo nghĩa hẹp, cho nên không dám có tham vọng mở rộng phạm
vi luận bàn sang những ngành lân cận.
3. Phóng tác
Rất
gần gũi với chuyển thể công việc phóng tác, khi một người cầm bút thấy
cần sửa đổi nguyên tác ít nhiều để cho tác phẩm thích hợp hơn với một
đối tương nhất định, thường hẹp hơn cái đối tương mà tác giả hướng tới.
Thường thường đó là đối tượng thiếu nhi. Làm việc này thường là một
người lấy làm tiếc rằng một tác phẩm hay nào đó có phần không thích hợp
với một công chúng lẽ ra có thể hiểu và thưởng thức nó nếu có ai căn cứ
vào những đặc thù của lớp người mình đang muốn phục vụ mà cải biên lại
chút ít, sao cho nó khớp với công chúng của mình. Nguyện vọng này hoàn
toàn chính đáng, có thể thực hiện được và hơn nữa cũng rất cần thiết đối
với những người còn phải chờ đợi một sự trưởng thành về trí tuệ mới có
thể tiếp cận được một tác phẩm. Cũng xin nói rõ rằng công việc này chỉ
có thể làm được với những tác phẩm văn học mà thôi, chứ đối với những
tác phẩm nghệ thuật khác thì không ai nẩy ra cái ý phóng tác một bức
tranh, một vở kịch câm hay một vũ kịch để cho nó thích hợp hơn với bất
kỳ đối tượng nào. Vì một lẽ giản đơn: việc đó không thể nào làm được.
Còn
như một loại tác phẩm quan trọng đối với mọi dân tộc như những bái hát
ru con (thường là trích mượn từ những bài ca dao) thì công chúng chủ yếu
của nó lại chính là “những người chưa đủ trưởng thành về trí tuệ”,
nhưng lại không thể phóng tác được, phải hát đúng từng chữ khi ru con,
với niềm hy vọng là nó sẽ được ghi lại trong ký ức thành những kỷ niệm
không bao giờ phai mờ để sau này nhớ lại, con người trưởng thành sẽ coi
nó như một truyền thống vĩnh hằng thiêng liêng nhất, quý giá nhất của
dân tộc[ii].
Sau
khi đã nói rõ nội dung của những công việc có phần gần gũi với dịch
thuật, khi bạn đọc đã có thể có được một khái niệm tương đối rõ ràng về
những ranh giới khu biệt giữa dịch thuật với những công việc ấy, chúng
tôi xin trình bày công việc dịch thuật như một quá trình gồm có mấy công
đoạn tách biệt. Đó là một cách trình bày có tính ước định, chẳng qua để
cụ thể hoá những chi tiết nhiều khi khó xác định của cái công việc
không lấy gì làm đơn giản này
4. Những công đoạn của việc dịch thuật
Các
tác giả của những giáo trình được đem giảng tại các khoa và bộ môn ngôn
ngữ học mà chương trình có bao gồm nội dung Dịch thuật thường trình bày
công việc của ngành khoa học này dưới dạng một quá trình có bốn công
đoạn sau đây:
(1) Phân tích nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn (Source Language) để “hiểu” thật rõ tác giả “muốn nói” gì.
(2) Xoá cách ngôn từ hoá của nguyên bản (Deverbalisation of the text)
(3) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của nguyên bản (qua một siêu ngôn ngữ ước định)
(4)
Tái ngôn từ hoá bằng ngôn ngữ đích để có được một văn bản tương đương
với nguyên bản (Reverbalisation in the Target Language so that the text
obtained would be equivalent to that written in the Source Language).
Dĩ
nhiên, cách phân ra thành công đoạn như trên không nhất thiết phải là
một quá trình gồm những giai đoạn lần lượt kế tiếp nhau theo trật tự
thời gian. Mỗi người dịch có thể làm việc theo một phương thức khác
nhau, kê cả những phương thức hoàn toàn mặc ẩn (implicite), thậm chí vô
thức (unconscious). Nhưng, cũng như khi nói về quá trình thụ đắc
(acquisition) vốn tri thức của người bản ngữ về tiếng mẹ đẻ của mình,
muốn dạy cách phiên dịch không thể có cách gì ngoài cách hiển ngôn hoá
(explicitating), nghĩa là nói ra thành lời một cách tỏ tường để người
học nhận thức được từng chi tiết, từng giai đoạn của quá trình thụ đắc
vốn tri thức cần thiết. Ta hãy xét kỹ từng công đoạn trong quá trình làm
việc của người phiên dịch có tri thức hiển ngôn về quá trình này.
(1), (2) Hiểu và phi ngôn từ hoá nguyên bản (xóa hết những từ ngữ của nguyên bản)
Câu
hỏi tất nhiên phải nảy sinh trong tâm trí người đọc trước hết là: tại
sao lại phải xóa những từ ngữ của nguyên bản, và sau khi làm như vậy,
thì trong trí nhớ của người phiên dịch phỏng còn sót lại được những gì?
Người có kinh nghiệm và kỹ năng dịch thuật[iii] sẽ đáp:
- Không ai có thể nhớ hết từ ngữ trong một lời phát biểu ở hội nghị, nếu dịch miệng. Người dịch chỉ nhớ cái nghĩa
của lời phát biểu. Người dịch viết có kinh nghiệm cũng biết rằng khi
hiểu một câu văn, người dịch phải quên cách biểu đạt câu ấy bằng những
từ ngữ gì. Sự quên lãng này sẽ càng ngày càng trở nên tự nhiên, thậm chí
tự phát. Trong tâm trí người nghe (người đọc), những từ ngữ của nguyên
bản lập tức bị quên đi để nhường chỗ cái ý mà tác giả muốn truyền đạt. Có thế người nghe (người đọc) mới hiểu được cái ý ấy.
- Vậy cái ý ấy cụ thể là cái gì, khi đã quên hết cách diễn đạt nó bằng những từ ngữ vốn làm thành cái bệ đỡ vật chất của nó?
- Cái ý ấy thường được giữ lại trong ý thức của người nghe (hay người đọc) dười dạng những hình ảnh về những gì đã được thuật lại bằng lời. Những hình ảnh này có thể tĩnh (tư thế, dáng vẻ) hay động
(động tác hay sự thay đổi tư thế, hình dáng). Ngoài ra, những hình ảnh
này lại phải được đặt trên bối cảnh của những hình ảnh đã có trong văn
cảnh trước đó, rồi lại được cắt nghĩa bằng những tri thức phổ thông
(ngoài ngôn ngữ học) của người nghe hay người đọc.
Những
người nghe dịch miệng trong hội nghị thường kinh ngạc trước cái trí nhớ
“kỳ dị” của người phiên dịch chính là vì cứ tưởng anh ta nhớ hết các từ
ngữ, trong khi thật ra anh ta chỉ nhớ cái nghĩa, cái ý mà người kia muốn nói ra thôi. Người dịch viết cũng không hề làm khác, nếu anh ta đã thực sự hiểu tác giả muốn nói gì. Ở đây chỉ cần lưu ý một chút nữa để thấy cần phân biệt mấy chữ muốn nói gì với những câu hỏi về nguyên do (tại sao mà nói thế?) về động cơ (nói thế để làm gì?).
Nói
tóm lại, phi ngôn từ hoá nguyên bản không hề gây trở ngại cho người
dịch mà chính là tạo một điều kiện không thể thiếu để họ có thể dùng nội
quan (introspection) soi sáng tâm trí mình để thoát ra ngoài những từ
ngữ có thể gây nên những tạp âm (noise - hiểu theo nghĩa của lý
thuyết thông tin) có hại cho hoạt động “hiểu” (comprehension) của tâm
trí nếu người nghe không quên ngay đi để chỉ tập trung vào việc hiểu cho
đúng tác giả muốn nói gì, muốn mình hình dung được những hình ảnh nào.
(3) Công việc tìm hiểu cái nghĩa, cái ý
mà tác giả muốn nói sẽ được nhận thức một cách minh xác hơn nữa khi ta
phân tích một cách hiển ngôn, bằng siêu ngôn ngữ của ngôn ngữ học và của
ngữ dụng học (nhất là trong những hành động ngôn từ (speech acts) của
tác giả và của các nhân vật, trong đó có những câu được gọi là câu ngôn
hành - performative sentences)
Những bình diện của lời nói và của văn bản đều được quan tâm phân tích đến mức chi ly, để không bỏ sót bất kỳ một chi tiết nào.
Tuy
nhiên không nên nghĩ rằng hiểu một văn bản là một quá trình làm việc
công phu đòi hỏi một thời gian dài. Công việc kiểm tra và phê bình, đánh
giá mới đòi hỏi như vậy, còn việc người nghe (hay người dịch) hiểu cái
nghĩa mà tác giả muốn truyền đạt bất chấp những lỗ hổng, những sự tỉnh
lược, những chỗ không nói hết trong ngôn từ thường chỉ cần một khoảnh
khắc, một nháy mắt cũng có thể được bù đắp ngay trong ý thức của người
nghe (hay người dịch).
Sau
đây là những nội dung ý nghĩa chứa đựng trong nguyên bản không bao giờ
được truyền đạt bằng ngôn từ mà người nghe hay người dịch vẫn phục hồi
được và hiểu ngay lập tức khi tiếp xúc với văn bản:
1. Tiền giả định (presupposition). Khi gặp một người quen hỏi thăm mình bằng câu “Anh đã khoẻ chưa?”,
người nghe (hay người dịch) biết ngay rằng người ấy có nghe ai đó nói
rằng trước đó mình có bị bệnh. Nếu cái tiển giả định ấy đúng, anh ta có
thể trả lời là ”Khoẻ rồi” hay “Chưa khoẻ”. Nhưng nếu cái
tiền giả định ấy sai (tức trước đó anh ta không hề đau ốm gì), thì dù có
trả lời thế nào cũng không ổn, vì cũng vô hình trung thừa nhận một tiền
giả định hoàn toàn sai.
2. Hàm nghĩa từ vựng (lexical implication). Khi một nhân vật trong nguyên bản nói “Nó sắp cưới vợ mới”, người nghe (và người dịch) biết ngay rằng nó là một người đàn ông trưởng thành từng có một đời vợ, mặc dầu trong câu không có một từ nào nói rõ giới tính của nó (nó dĩ nhiên có thể là một đứa con gái) và tình trạng hôn nhân trước đó của nó. Tuy vậy người nghe (và người dịch) suy diễn được ngay những điều này từ những từ khác có mặt trong câu như cưới vợ và mới.
3. Hàm ngôn hội thoại (conversational implicature).
Ta thấy có một hàm ngôn hội thoại khi người nghe (hay người dịch) có
thể căn cứ vào một ý trong cuộc hội thoại mà suy ra một ý khác không nói
ra nhưng vẫn có mặt trong ý thức người nghe (hay người dịch). Chẳng hạn
khi nghe ai nói “Hôm nay nó không say”, người nghe hiểu ngay là có những hôm khác nó say.
Nói
chung, ta thấy rằng một nguyên bản bất kỳ không nhất thiết phải nói hết
nội dung của nó ra bằng từ ngữ, vì có những ý có thể được người nghe
suy ra một cách dễ dàng ngay từ sự vắng mặt của những từ ngữ ấy.
Về những Đơn vị Ý nghĩa
Khi
nghe một lời phát biểu ở hội nghị cũng như khi đọc một câu văn cần
dịch, người nghe hay người đọc đang muốn dịch câu ấy thường bất giác
chia câu ấy ra thành từng “cụm từ “ để lần lượt hiểu cho được những gì
vừa nghe hay vừa đọc xong. Những “cụm từ” này không trùng với những đơn
vị cấu trúc mà nhà ngôn ngữ học dùng những thủ pháp phân tích nghiêm
ngặt để tách ra khỏi ngữ lưu (những ngữ đoạn, những từ đơn, những từ
ghép, những thành ngữ, v.v.). Lederer gọi đó là những Đơn vị Ý nghĩa (Unités de sens).
Người
nghe hay người dịch lần lượt hiểu và quên ngay những từ ngữ vừa nghe
hay vừa đọc được không phải theo một kỹ năng khoa học, có cơ sở lý luận,
mà theo bản năng, trong quá trình nghe hay đọc, hễ hiểu ra được khúc
nào là ghi nhận ý nghĩa (và quên ngay từ ngữ) của khúc ấy.
Những
đơn vị ý nghĩa này nối tiếp theo nhau (và có những chỗ chồng chéo lên
nhau) trong tâm trí người nghe để cuối cùng làm thành cái ý nghĩa chung
của câu văn và đoạn văn, rồi hội nhập vào những đơn vị rộng lớn hơn
nữa,, những ý nghĩa mạch lạc hơn, và biến thành những kỷ niệm, những tri
thức phi ngôn từ hoá trong tâm trí người nghe hay người dịch.
Kích
thước của những đơn vị ý nghĩa có thể ở mỗi người một khác. Có người
phải chờ cho hết một đoạn dài mới tổng kết được ý nghĩa của nó; có người
chỉ cần nghe một hai chữ đầu đã hiểu cả đoạn.
(4) Tái ngôn từ hóa
Công
đoạn cuối cùng của việc dịch thuật, - và cũng chính là mục đích tột
cùng của nó - là việc tái ngôn từ hoá những gì người đọc đã hiểu được
khi đọc nguyên bản, tức những ý và nghĩa mà tác giả muốn
truyển đạt bằng cách sử dụng ngôn ngữ đích - thứ tiếng mà người dịch
chọn làm phương tiện biểu đạt cho bản dịch của mình..
Như
đã nói trên kia, một bản dịch xứng đáng với danh từ này phải có giá trị
tương đương (equivalent) với nguyên bản về mọi phương diện, nội dung
cũng như hình thức. Vậy muốn bản dịch có giá trị tương đương này, người
dịch phải làm những gì?
Tính
tương đương của một bản dịch so với nguyên bản có thể phân tích thành
hai dình diện: bình diện nhận thức (équivalence cognitive) và bình diện
xúc cảm (équivalence affective)
1. Tính tương đương về nhận thức
Tính
tương đương trên bình diện nhận thức là kết quả của việc sử dụng những
yếu tố phụ trợ về khái niệm mà người dịch đưa vào bản dịch để bổ sung
cho ngữ nghĩa của nguyên bản. Việc bổ sung này là cho bản dịch khác với
nguyên bản về hình thức. Mức độ khác nhau giữa nguyên bản và bản dịch
tùy thuộc vào sự khác nhau về loại hình giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ
đích.
Cái
khoảng cách này càng nhỏ thì càng có nhiều sự tương ứng
(correspondences) về hình thức biểu đạt. Vì vậy giữa hai thứ tiếng cùng
loại hình như tiếng Hán và tiếng Việt, đều là ngôn ngữ đơn lập
(isolating) và phân tích tính (analytic) đến triệt để, đều không dùng
đến hình thái học[iv],
chỉ còn khác nhau ở trật tự từ ngữ trong ngữ danh từ (phụ trước chính
sau), trong khi ngữ vị từ thì vẫn theo trật tự chính trước phụ sau, có
thể tìm thấy khá nhiểu sự tương ứng về ngữ pháp và từ vựng trong cách
biểu đạt. Huống chi trong tiếng Việt có đến từ 70% đến 80% từ ngữ gốc
Hán, trong đó có những ngữ đoạn có cấu trúc chặt và thường có chức năng
định danh, gọi là “từ Hán-Việt”[v] .
Còn
giữa tiếng Việt và các thứ tiếng châu Âu, vốn thuộc loại hình khuất
chiết hay biến hình (inflectional) và tính tổng hợp (synthetic) rất cao,
cái khoảng cách ấy rất lớn, cho nên ít khi có thể tìm thấy những sự
tương ứng, nhất là những sự tương ứng một đối một, giữa hai bên. Trong
việc dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia, công đoạn phi ngôn từ
hoá lại càng quan trọng và cần thiết. Khi đã hiểu được cái ý nghĩa mà
tác giả muốn truyền đạt, thà xoá hết những từ ngữ của nguỵên bản tiếng
Âu châu còn hơn mải loay hoay với những từ ngữ ấy mà sao lãng việc tìm
cho ra cách biểu đạt cho thật đúng và thật hay những ý nghĩ và hình
tượng mà tác giả muốn truyền đạt.
Tôi
còn nhớ mãi một câu văn trong sách “kinh điển” do một nhà xuất bản lớn
của Thủ đô ấn hành vào những năm 50 của thế kỷ vừa qua:
Cứ cái đà này, những con người rồi sẽ đến nước phải gặm cỏ nội như những con cừu cái.
Trong nguyên bản tiếng Pháp (xuất xứ của bản dịch vừa dẫn), ta thấy:
De ce train-là, les hommes en viendront à brouter l’herbe des prés comme les brebis.
Tôi
hoàn toàn thông cảm với dịch giả trong sự nỗ lực dịch thật sát nguyên
bản sách kinh điển, vốn được coi là một thứ thần văn mà nếu dịch sai dù
chỉ một chữ hay một cái dấu chấm câu cũng có thể đề lại cho hậu thế
nhũng hậu quả khôn lường. Nếu dịch giả không dịch như thế, thì ban biên
tập chắc chắn sẽ sửa lại cho đúng như thế.
Nhưng đứng trên quan điểm của nghề dịch thuật, không thể không nói ra những nhận xét sau đây:
(a). dịch giả dịch sát những từ ngữ, chứ không truyền đạt cái ý mà tác giả muốn nói;
(b). dịch giả không biết tiếng Việt chuẩn khác tiếng Pháp như thế nào. Chẳng hạn, les hommes không tương ứng với những con người, mà với con người hay người ta; khi nói về động vật, tiếng Việt không có nhu cầu phải nói rõ số và giống như tiếng Pháp, cho nên viết ăn cỏ như cừu là đủ và đúng. Vả lại chẳng lẽ chỉ có cừu cái mời ăn cỏ, còn cừu đực thì không?
Dù
câu dẫn trên đây có là một câu thần chú, trong đó mỗi chữ đều linh
thiêng và có giá trị sinh tử đối với người khấn nguyện, thì cách dịch
như thế vẫn là sai vì dùng ngôn ngữ đích không đúng chuẩn và do đó không
tương đương với nguyên bản, ít nhất là về phương diện ngữ pháp và phong
cách, vì có quá nhiều nét thừa dư (redundancies) nếu lấy nguyên bản
tiếng Pháp làm chuẩn để so sánh.
Giáo
sư phật học Minh Chi nhiêu lần than phiền rằng những bản dịch kinh Phật
đọc lên không ai hiểu được chút gì, nhưng ông đã đề nghị dịch lại mấy
lần mà Giáo hội không chịu, vì Kinh Phật “chỉ cần tụng niệm chứ không
cần hiểu”.
2. Tính tương đương về xúc cảm
Không
thể có một lý thuyết chung để xác định mức độ tương đương về tính xúc
cảm giữa một bản dịch với nguyên bản, vì trên bình diện này sự khác nhau
giữa các ngôn ngữ có thể nói là muôn hình vạn trạng. Mỗi ngôn ngữ có
một cách riêng để kết hợp hai bình diện nhận thức và xúc cảm trong những
thủ pháp thường gọi là tu từ học, hay phong cách học, hay hùng biện
(rhetorics). Bình diện xúc cảm cũng có mặt trong cách dùng những thành
ngữ, những tục ngữ, những lối nói mà truyền thống lâu đời của văn học
dân gian đã nhuộm những màu sắc xúc cảm không mấy khi có thể phân tích
và xác định bằng những thuật ngữ khoa học.
Tính
tương đương về hai bình diện xúc cảm và nhận thức thường quyện vào nhau
một cách hết sức nhuần nhuyễn trên khắc các cấp độ khác nhau của hệ tôn
ti giữa các đơn vị ngôn ngữ.
Sau đây là cách trình bày của Werner Koller (1992) về những chuẩn tắc của tính tương đương trong dịch thuật:
* bản dịch phải chuyển đạt đủ những thông tin của nguyên bản về hiện thực ở bên ngoài ngôn ngữ (denotative Äquivalence)
*
nó phải tôn trọng phong cách của nguyên bản: âm vực của ngôn ngữ, biệt
ngữ xã hội và địa phương của nguyên bản (konnotative Äquivalence)
* nó phải phù hợp với thể loại chuẩn của nguyên bản (textnormative Äquivalence)
*
nó phải được thích nghi với vốn tri thức của độc giả để cho độc giả
hiểu được. Đó là một sự tương đương về dụng pháp (pragmatische
Äquivalence)
* cuối cùng, bản dịch phải tạo ra được một hiệu quả thẩm mỹ tương đương với nguyên bản (formal-ästhetische Äquivalence).
Ta có thể tin chắc rằng những chuẩn tắc trên đây của W. Koller
đề phải được tính đến, một cách có ý thức hay chỉ trong mẫn cảm trực
giác, khi đánh giá một bản dịch. Tất nhiên, những chuẩn tắc này không
phải là một phương pháp dịch thuật có thể dùng để soạn sách giáo khoa
đào tạo những người phiên dịch. Nhưng nó có thể cho phép người ta kiểm
nghiệm lại xem thử một bản dịch nào đấy có thiếu sót điểm nào trong việc
đi tìm sự tương đồng hay không.
Ngay
trong cách trình bày những chuấn tắc của mình về tính tương đồng của
bản dịch so với nguyên bản, W. Koller không tránh khỏi việc so sánh giữa
từ ngữ của bản dịch với từ ngữ của nguyên bản. Điều này có phần mâu
thuẫn với nguyên lý chung của ngành dịch thuật: dịch không phải là thay
thế những từ ngữ của nguyên bản bằng những từ ngữ của một thứ tiếng
khác, mà hiểu lấy ý nghĩa của nguyên tác bằng cách xoá sạch từ ngữ của
nó đi để tạo nên một ý nghĩa tương đương bằng những từ ngữ của một thứ
tiếng khác.
Nhưng kiểm tra và đánh giá một bản dịch lại là một công việc khác.
*
Những
dòng trên đây của chúng tôi không có tham vọng gì hơn là phác thảo một
vài nguyên lý cơ bản của công việc dịch thuât xét về lý thuyết, chủ yếu
dựa trên một cuốn sách tương đối mới (so với thuyết TÍN-ĐẠT-NHÃ của hai
thế kỷ trước). Chúng tôi biết rằng bài này chưa đáp ứng được bao nhiêu
những nhu cầu lý thuyết và thực tiễn của các bạn đồng nghiệp. Tôi chỉ
mong sao những người có chú ý đến dịch thuật và có trách nhiệm trong
ngành xuất bản quan tâm ít nhiều đến việc cho dịch và xuất bản một vài
công trình có thể giúp cho những người làm việc trong ngành này có tài
liệu để trau dồi tri thức về nghề nghiệp.
-
Cao Xuân Hạo (dịch giả, nhà ngôn ngữ học)
[i] Trong
số những chuyên gia nổi tiếng về phiên dịch có PGS. Phan Ngọc đã hàng
trăm lần căn dặn các môn đệ rằng “muốn đổi gì thì đổi, chứ trât tự từ
ngữ thì nhất thiết phải giữ y nguyên”.
[ii]
Một điều đáng tiếc là những bài ca dao thường dùng khi ru con rất ít
được học trong các giáo trình tiếng Việt, vì nó rất khác tiếng Tây, và
do đó “chẳng có giá trị gì về ngữ pháp”.(ngay sách giáo khoa dạy tiếng
cũng rât ít khi dẫn ca dao, vì câu ca dao tường cải chính một cách hùng
hồn những quy tắc ngữ pháp tiếng Tây mà sách giáo khoa đem dạy cho người
Việt).
[iii] Những tài liệu chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong bài này gồm có những đầu đề sau đây: Lederer M. La traduction aujourd’hui. Le modèle interprétatif. Hachette 1994; Seleskovich D. Traduire, de l’expérience au concept. Études de Linguistique Appliquée 24. Didier 1986. Sperber D. & Wilson D. Relevance, Communication and Cognition. Blackwell 1986. Sartre J. P. Qu’est-que la littérature. Gallimard 1985. Steiner G. After Babel.Aspects of Language and Translation. Oxford U.P. 1978; Delisle J. L’analyse du discours comme méthode de traduction. P.U.Ottawa 1984; Koller, W.Einführung in die Übersetzungwissenschaft. Heidelberg. 1992.
[iv]
Đây là nói đến tiếng Hán”cổ điển” (thời Đường–Tống), vì tiếng Hán hiện
đại đã có những yếu tố khá rõ của loại hình chắp dính (agglutinating
languages) với sự xuất hiện hàng loạt của những phụ tố (affixes), do quá
trình ngữ pháp hoá (grammaticalisation) của những “thực từ” vốn mang
nghĩa từ vựng (lexical meaning) như danh từ (nouns) và vị từ (verbs),
nay đã mất nghĩa từ vựng (“hư hoá”) mà chuyển thành những công cụ ngữ
pháp (những phụ tố như tử, nhi, nhĩ, tố, đích, v,v,).
[v]
Danh ngữ này, thường được coi như một vế đối lập với “từ thuần Việt”,
đã gây nên nhiều sự ngộ nhận không đáng có.. Có nhiều người tưởng rằng
“từ Hán-Việt” là những từ ngữ được ”vay mượn” từ nước ngoàiï rồi đem du
nhập vào tiếng Việt, cũng giống như những từ ngữ tiếng Pháp, tiếng Anh
hay Quảng Đông, Phúc Kiến, Nhật Bản, Hàn Quốc, đổng thời tưởng rằng từ
”thuần Việt” là những từ gốc Việt có từ thời khai thiên lập địa. Thật ra
từ “thuần Việt” hầu hết là những từ gốc Thái, gốc Mường hay gốc
Môn-Khmer. Trong khi đó thì từ Hán-Việt là một trong những cội nguồn
quan trọng và cổ xưa nhất của tiếng Việt, nằm trong lớp hạ tằng của
tiếng “thuần Việt”,chứ tuyệt nhên không phải là những từ mới vay mượn từ
tiếng nước ngoài.
Chuyên đề Dịch thuật Việt Nam thời @:
Nguồn: http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2006/01/533571/
Đăng nhận xét