Đêm giao thừa, hình như mọi vật đang đắm chìm trong thổn thức, bâng khuâng
và chờ đợi......
Một ngày mới...
Ngoài kia, mấy nụ mai vàng cựa quậy, cố
thoát mình ra khỏi những lớp màn đêm u tịch, như muốn thưởng thức vị ngọt ngào
tinh khôi của khoảnh khắc đầu Xuân. Bên này, một cánh anh đào bệ rạc đang trăn
trở, chơi vơi trước bước nhảy của thời gian.
Trong đêm hôm, đứng giữa đôi bờ sinh diệt,
tôi thầm hỏi với chính mình: còn con đường nào khác không (?) Bất giác, tiếng
chuông chùa điểm canh, một ai đó đang ngâm kệ bên phiến đá cạnh chùa như muốn
đánh thức mọi khái niệm bế tắc và mọi khắc khoải - ưu tư trong lòng nhân thế:
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
(滿覺禪師)
Xuân khứ bất hoa lạc
Xuân đáo bất hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Mãn
Giác Thiền sư)
Dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Sự đời nối nhau qua trước mắt
Tuổi già hiện về từ trên đầu
Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Thiền
sư Mãn Giác)
Chắp tay, xin trần gian hãy rủ bỏ những vọng niệm lao xao tận cùng dưới đáy
tâm thức nhỏ nhiệm, để cùng chàng Cùng tử miên man hí hoạ một chân tâm thường hằng-
ấy là viên ngọc ẩn- hiện, hiện- ẩn, lung linh không bao giờ phôi phai trong mỗi
con người, được thể hiện cụ thể qua bài kệ của Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096).
Sau những năm tháng tu hành viên mãn ở cõi bể dâu, các thiền sư thường trút
bỏ xác phạm lại, trao cho tứ đại hóa sinh, để chơn tâm muôn thuở đi vào dòng
vĩnh viễn: bất sinh bất diệt, vô khứ vô lai......
Trước lúc giã từ ngôi nhà mộng huyễn, khổ đau, các thiền sư thường để
lại cho đời một vài ý kệ ngắn ngủi, then chốt như muốn nhắc nhở, cảnh báo về lẽ
thành - trụ - hoại - không.
Trong thế giới nội tại mầu nhiệm, tỉnh thức ấy, đã biết bao bài kệ ngời lên
như thế, nhưng sao mãi đến hôm nay qua cành mai của Mãn Giác thiền sư ta vẫn cảm
thấy có cái gì đó thật tuyệt diệu, cái tuyệt diệu mà không một ngôn từ nào có
thể chuyển tải cho hết, ta chỉ có thể lãnh hội đích xác và trọn vẹn khi thực sự
đi trên con đường ấy. Tuy vậy, đã nói đến ngôn ngữ ắt phải nói đến nhận thức,
nói đến ý nghĩa. Căn cứ như thế, chàng Cùng tử rón rén, tập thử bước vào thế giới
thiền học, một thế giới như là đầy bí ẩn và lung linh màu sắc...
Như chúng ta đã biết, trong văn chương, đặc biệt là về lĩnh vực thơ
ca, các thi sĩ thường diễn tả quy luật vận hành của vũ trụ theo một chiều hướng
nhất định, có bắt đầu và có kết thúc, không phải diễn tả theo một vòng
tròn: đáo (đến) à khai (nở) ;
khứ (đi) à lạc (rụng);
đến à đi (= qua),
nở à lạc, người
ta thường nghĩ rằng “đến” và “nở” bao giờ cũng xuất hiện trước “đi” và “rụng”,
do cách nhìn cố hữu ấy, mà người đời quen quan sát vạn hữu theo một chiều. Phải
chăng, vì vậy mà họ coi trọng sự viên dung và hất hủi sự úa tàn...? Chúng ta
hãy lắng đọng tâm tư nghe những âm ba tâm tưởng của thiền sư, tâm tưởng ấy hình
như đang đi ngược thời gian, lội ngược dòng đời:
春去百花落
春到百花開
“Xuân khứ bất hoa lạc
Xuân đáo bất hoa khai”
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở)
Trong tâm hồn các thi sĩ, thường hiện hữu khái niệm từ “có” (hoa nở) đến
khái niệm “không” (hoa rụng). Bởi vì, khi thể hiện sự “lạc/rụng” trước sự
“khai/nở” là trái với quy luật tất yếu của vũ trụ vạn hữu. Thế nhưng đối với
các thiền sư đắc đạo, họ lại chấp nhận điều như là nghịch lý đó, bởi lẽ, họ thấu
rõ rằng, trong cái “rụng” ấy đã sẵn có cái “nở” này. Cũng như, cái chết
không phải là điểm kết thúc cho một đời người, mà là mở ra cho một sự sống
mới, sự sống ấy tốt hay xấu là phụ thuộc vào cuộc sống hiện tại, cuộc sống
đang là... của chính mình. Một mùa Đông lạnh giá băng qua, tưởng chừng mọi vật
sẽ chết dần trong sương buốt, ngờ đâu, chính khoảnh khắc ảm đạm ấy lại là thời
điểm vạn vật tích tụ, khởi điểm cho mọi tinh hoa nõn nà của sự sống. Chưa hết,
cũng có thể thâm ý của kệ muốn khuyên chúng ta rằng: hãy “đi”( khứ) đi hành giả
hãy tẩy rửa những vết nhơ ái nhiễm mà bấy lâu nó đã ghìm hành giả trong lắm nẻo
tử sinh bất tận, dẫu bước tới con đường ấy sẽ gặp rất nhiều đắng cay, nghiệt
ngã (lạc/rụng), nhưng hành giả đừng lo ngại, việc đi tìm nguồn gốc kia sẽ
có ngày bước tới (đáo/đáo) bờ giải thoát (khai/nở). Phải chăng, thiền sư đặt từ
“khứ” trước từ “đáo” và từ “lạc” trước từ “khai” là vậy? Cũng rất có thể ở
đây, ngài chỉ nói lên thực tại vô thường của hiện tượng giới mà thôi! Thời
Xuân Thu, có lần đức Khổng Khâu (27/8/551 TCN?) đứng trên bờ sông, nhìn xuống thấy con
nước trôi chảy mải miết, đột nhiên thốt lên rằng: “Thệ giả như tư phù, bất
xả trú ạ? Trôi chảy mãi, ngày đêm không thôi, như thế ư?” - Đấy là sự đồng cảm giữa
tâm hồn với hiện tượng, vạn hữu; sự đồng cảm hình như chỉ có thể diễn ra trong
sát na đặc biệt nào đó mà thôi, chứ không phải diễn ra một cách tràn lan,
phổ biến. Hay nói cách khác, đấy là sự thực chứng, và một lần nữa cho thấy, sự
đốn ngộ chính là sự đồng cảm, một sự đồng cảm rất đặc biệt, kỳ diệu và hy hữu.
Tuy ngôn ngữ thiền học rất sâu xa và khó hiểu, vượt ngoài phạm trù của pháp hữu
vi (thuật ngữ của đạo Lão, chỉ hiện tượng giới), giả hợp, nhưng dẫu sao với trí
óc hữu hạn của chúng ta, cứ xem đó như là một chân lý, một cái búa đập tan những
gì gọi là định kiến tầm thường, để đưa về một thức tỉnh mới - cuộc sống như
dòng lũ bất tận - không thể nắm bắt và trì hoãn, đợi chờ.
Dưới cái nhìn duyên khởi (thuật ngữ đạo Phật hàm chỉ cái này có mặt, thì cái
kia có mặt, và ngược lại. Cái này không có mặt thì cái kia không có mặt, và ngược
lại. Mọi thứ có trong nhau, không thể tồn tại độc lập), con người và các pháp
chỉ dệt nên bởi sự tương xung tương tục. Điều ấy được thể hiện rõ nhất, hãy
nhìn ngoài kia:
事逐眼前過
老從頭上來
“Sự trục nhãn tiền quá”
(Sự đời nối nhau qua trước mắt)
và hãy kiểm lại chính mình:
“Lão tòng đầu thượng lai”
(Tuổi già hiện về từ trên đầu)
Cuộc thế vô thường mãi hoài vận xoay, như con sóng bạc đầu ngoài khơi
ngàn năm vẫn vỗ, khúc hát vĩnh hằng và cố nhiên, nó không ngừng hôn lên bờ cát
trắng, tung bọt, xoá nhoà hình hài của những con nghêu, con hến ngủ yên, bất động,
không lời. Mái tóc xanh non của ai mới hôm nào, bỗng điểm bạc. Trước lẽ tử
biệt sanh ly, con người có lúc đã thấp thỏm, kêu van chới với! Nhưng không hẳn
ai cũng như thế. Phải không, “lão” đây chính là sự rèn luyện chín muồi trong
thiền định, hay đó chỉ là sự diễn tả quy luật dịch chuyển, vận động
của pháp hữu vi? Câu kệ thật hàm súc và đa nghĩa, nó như mang dấu ấn của sự nhắc
nhở và như có cả nỗi buồn lặng lẽ cho thời đại... Chỉ vỏn vẹn mười từ thôi, câu
kệ thênh thang rẽ sóng biển luân hồi mà đi, như ngọn gió kỳ diệu thổi nhẹ chiếc
lá vô ngã bay về bờ vô niệm, không tận. Trên con nước cuối cùng của sanh lão, thiền
sư ngoảnh lại động lòng và buồn... Có lẽ như thế! Bởi vì, không một vị chân tu
nào có thể vô tâm, nhẹ gót lúc sắp bước sang cảnh giới bên kia lại không mang
trong mình mảy may tình yêu thương, đặc biệt là những chúng sinh đang đứng trước
mê lộ của cuộc đời, đang ngập lặn trong biển cả lợi danh.
Tại sao loài người mãi đau khổ như vậy? Có lẽ, do loài người quá khát vọng,
chỉ thích thú sự sung mãn, viên dung, mà ghét bỏ sự thiếu thốn, tàn tụy,
cho nên cuộc hóa sinh của loài người diễn ra quá ư là khổ não. Để phá vỡ bức
thành kiên cố đó, hãy nhìn kìa:
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
“Mạc vị xuân
tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân
trước một cành mai)
Như phân tích trên cho thấy, bốn câu kệ trước lột tả một thực tại của cuộc đời,
thể hiện phép quán chiếu từ ngoài vào trong. Đây không phải là cái nhìn hời hợt
- thoáng qua mà là cái nhìn thâm trầm, sâu sắc, cái nhìn đã trải qua thực nghiệm.
Rõ ràng, từ trong thiền định, quán chiếu, mọi xao động của dục vọng được đình
chỉ, như mặt nước hồ thu phẳng lặng, không một gợn sóng tí tẹo nào. Theo đà
quán chiếu ấy, cho đến một lúc, hết thảy tàn dư của dục vọng dưới đáy tâm thức
cũng không còn hiện hữu nữa và nơi đó, tự dưng bừng lên “một cành mai vĩnh cửu”,
bất diệt - đây là hệ quả tất yếu của sự tu chứng mà Mãn Giác thiền sư đã thể hiện
qua giai trình hành đạo của mình, từ ngoại tại đến nội tại của chánh lý Phật
Đà. Nếu như xem bốn câu kệ đầu là công phu tu quán, thì câu kệ cuối là hoa trái
của công phu tu quán ấy.
Người ta cứ lầm tưởng, khi tuổi xuân đi qua thì tất
cả phải sống trong sự già nua, bệnh tật và chết chóc, một sự sống như đang tồn
tại và tiến đến sự héo úa, tàn phai... như thế và chỉ có như thế mà thôi. Chính
vì cái nhìn một chiều- cái nhìn không như thực tại, bi quan như thế, cho nên
thiền sư lấy cái vừa tu chứng của mình, tạm dùng ngôn ngữ cuộc đời mà ngầm
khuyên mọi người rằng: hãy đừng sợ trước pháp hoa tan lá rụng, hãy vui sống
và hành thiện trong hiện tại, mỗi bước đi thiện chính là nụ hoa muôn thuở đang
ngày một hé nở trong ta. Vẫn biết rằng hễ có hợp thì có tan, có sinh thì có tử,
nụ cười và nước mắt..., nhưng nên biết rằng trong quy luật “có mở đầu và có kết
thúc” kia lại tồn tại, hiện hữu một cái bất biến, miên viễn, ấy là một Chân như diệu hữu, hay một “viên ngọc/cái đẹp”
mầu nhiệm đang lung linh, tiềm ẩn ở trong mỗi con người chúng ta. Hãy tin tưởng
vào chính mình và cuộc sống đang không ngừng trôi chảy này!
Điểm lại ngôn kệ từ: “Xuân khứ bất hoa lạc” đến
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận” ta nhận thấy câu nào cũng có mặt sự chuyển động:
khứ / lạc / đáo / khai / trục / qúa / tòng / lai / vị / lạc. Tất cả như từng đợt
sóng dữ dội, nối tiếp nhau cuộn vào vô tận, vào thế giới điên đảo mộng tưởng này.
Chao ôi, con thác tử sinh thực tại của chốn tà huân này là thế ư ?! Cây muốn lặng
mà gió chẳng ngừng. Thật rùng mình khi đứng trước giông tố cuộc đời bởi bao điều
ngược ý, không tưởng... Nhưng khép lại bài kệ lại mở ra cho ta một cái nhìn mới,
một tia hy vọng bất diệt vào ngày mai: “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. Câu thơ
thật êm đềm làm sao, không hiện hữu một động từ nào, không bị chi
phối bởi một ngoại lực nào, nó tồn tại như chưa hề tồn tại, nó xuất hiện như
chưa hề xuất hiện giữa cõi phù du, mộng huyễn, kiều diễm này, thế thôi! Một
trái tim bình yên và chỉ thật sự bình yên mới cảm nhận được chân lý diệu kỳ, hy
hữu ấy. Khoảnh khắc nhận chân về nó tuy ngắn ngủi, chớp mắt, nhưng đôi lúc cần
phải đánh đổi cả cuộc đời (mà vẫn không được).
Hoàng hôn buông xuống, thái dương chìm trong bóng đêm sâu thẳm,
nhưng ngày mai ánh dương sẽ bừng sáng...
Một mùa Xuân nữa lại thì thầm bước đến, hãy khoác lên
mình chiếc áo yêu thương, nở nụ cười hoan hỷ, nơi đó là điểm khởi đầu cho một
cành mai vĩnh cửu; và nơi đó cũng là điểm tháo gỡ cho mọi uẩn khúc của cuộc đời.
Viết tại Huế, năm 2001
Nguyễn Phước Tâm
Đăng nhận xét